KHÍA CẠNH TÂM LÝ CỦA THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
Bác sĩ Nguyễn Đức Phùng
Sau ngày 30/04/1975, chúng ta đã chứng kiến một sự thay đổi lớn lao, một sự thay đổi đột ngột, đảo lộn triệt để từ dưới lên trên từ trong ra ngoài, không phải cho một người, một nhóm người mà là cho cả nước, cả một dân tộc. Sự thay đổi quá sức nhanh chóng làm mọi người hoảng hốt, bận rộn đối phó với hoàn cảnh để sống còn. Trong một bối cảnh hỗn loạn náo nhiệt quay cuồng không kịp thở ấy, mấy ai có thì giờ nhàn rỗi để ngồi nhâm nhi ly cà phê, hồi tưởng cuộc đời để thấy thấm thía những kinh nghiệm của dân gian đã được ghi lại trong ca dao tục ngữ như câu: “Trời làm một trận lăng nhăn, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông”
Khi đã hoàn hồn sau cơn bão tố, cát bụi đã lắng xuống, mặt trời đã ló dạng, nhìn cảnh hoang tàn trong tĩnh lặng, chúng ta thường cảm khái và bắt đầu lên tiếng, viết lách, như cây lá lại đâm chồi, cùng với hoa thơm và cỏ dại ở cả hai bên bờ đại dương.Trong đời sống văn hóa của cộng đồng người Việt hải ngoại, trên các sách báo ta đã thấy tràn ngập những tiếng thở than buồn thảm của người dân mất nước, những uất hận hào hùng của những chiến sĩ chưa được đánh xả láng một lần mà đã phải buông súng đầu hàng, những hận thù nghi ngút, những ước mơ cường điệu vớt vát như ngọn đèn hết dầu bùng lên trước khi tắt ngấm.
Có người dùng thơ để chửi bới đối phương cho đỡ tức. Có người chửi xéo, chửi xiên. Có người chửi thẳng, kêu đích danh kẻ thù ra mà chửi, và chửi thật tục tĩu, như nhóm thơ chua, thơ đắng và thơ gai. Dù tục tĩu, dơ dáy thế nào đi nữa, thơ ấy vẫn có người thưởng thức, vì bá nhân bá tánh, vì một trăm người tục một chục người thanh, vì hận thù và những bản năng tục tĩu lúc nào cũng có sẵn trong người chúng ta và nhất là ít hay nhiều, mỗi người trong chúng ta đã là nạn nhân của thời cuộc.
Bên kia bờ đại dương, vì không có tự do báo chí, nên khó mà thấy được nỗi lòng của người dân qua văn nghệ phẩm. Nhưng sức sống, sự phản kháng và thích ứng với hoàn cảnh bất lợi của một dân tộc, luôn luôn lúc nào cũng có đó và rất linh động dưới nhiều hình thức. Một trong những hình thức đó là văn chương truyền khẩu, qua ca dao, tục ngữ, vè, những câu thơ, bài hát ngắn, và những chuyện cười tiếu lâm. Thí dụ như bốn câu thơ ngắn sau đây:
“Ra đường chẳng biết yêu ai
Yêu anh bộ đội có hai quả mìn
Chính giữa là cái đèn pin
Chung quanh là những dây mìn đen thui’’
Nghe xong bài thơ, phản ứng đầu tiên là cười, cười thật to và thật thoải mái, như có cơ hội xổ ra được những ấm ức trong lòng. Cười xong thấy nhẹ nhỏm cả người, thấy mọi việc đều dễ dãi, không có gì phải khó khăn cho người và cho mình, nghĩa là cái gì cũng có thể tha thứ được!
Nhưng sau đó ta lại thấy có một cái gì u uất trong lời thơ. Đấy là lời của một cô gái ở lứa tuổi đôi mươi, tuổi của yêu đương và mơ ước. Nhưng có gì đâu để mà mơ ước trong xã hội thời ấy. Chung quanh chỉ có một đối tượng duy nhất là bộ đội, trong một xã hội nghèo nàn, mất tự do và thiếu sinh khí. Tất cả đều vận hành theo mệnh lệnh và khuôn mẫu của đảng và nhà nước, theo kiểu nhà binh, và nhất là những áp lực tinh thần, u ám, nặng nề khó thở của một bộ máy tuyên truyền nhồi sọ và quản lý kiềm kẹp, tạo ra một sự nghi kỵ và giả dối đáng sợ vô cùng vào khoảng giữa 1975 và đầu thời kỳ đổi mới, trước khi đảng cộng sản Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu tan rã.
Đành rằng hình ảnh của anh bộ đội là một hình ảnh đẹp, vì chính anh, những người trẻ tuổi đã đem xương máu của mình để giành lại tổ quốc và bảo vệ quê hương. Nhưng sự hy sinh của anh đã không được nghĩ đúng như vậy, cho nên người con gái đã không thấy ở anh cái hình ảnh đẹp đẽ cao quý đó. Mà nàng đã thấy ở anh là sự tượng trưng cho chế độ (symbolism), đã đồng hóa anh với chế độ (Identification). Có lẽ vì ghét chế độ, nên nàng đã đổ cả lên đầu anh, như kiểu giận cá chém thớt (displacement), bằng cách đồng hóa anh với bộ phận sinh dục, tức là đã hạ giá trị của anh (devaluation), gián tiếp là làm xấu chế độ. Nhưng làm như thế nàng đã thấy bất nhẫn đối với anh bộ đội, hoặc là sợ bị chụp mũ là phản động, nên nàng chuyển sang hình ảnh cái đèn pin (another diaplacement), cuối cùng là đưa đến một cái cười thoải mái, hài hước (humor), sau khi đã đá giò lái chế độ, thật là thâm!
Người con gái nói riêng và đám quần chúng nói chung, đã đối phó với hoàn cảnh bất lợi của một chế độ mà họ không muốn, bằng một loạt những cơ chế tâm lý như trên.
HÀI HƯỚC (humor):
Hài hước khéo léo để đối phó với hoàn cảnh bất lợi cho mình là một cơ chế tự vệ trưởng thành nhất. Hài hước ở đây khác với cái cười xã giao trên đầu môi chót lưỡi, khác với cái cười phản xạ trước khi nói, cũng khác với cái cười nhếch mép, cái cười băn khoăn khắc khoải của các nhân vật trong truyện của Nhất Linh, mà là cái cười hóa giải, làm các lực đối kháng nhau bỗng nhiên không còn là đối thủ của nhau nữa. Chủ thế không còn là bãi chiến trường cho các thế lực đối nghịch tác hại nữa. Nhờ phát ra được tiếng cười hài hước mà cô gái kia cũng đã bớt buồn cho số phận, anh bộ đội nghe xong cũng cười xòa dễ dãi và thông cảm, biết đâu chế độ cũng đã thay đổi dễ thở hơn vì cái cười hài hước đó!
HỒ XUÂN HƯƠNG
Trong thi ca Việt nam, Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ rất đặc biệt. Mặc dù thơ văn và tên tuổi của bà đã không được đem ra giảng dạy chính thức, trịnh trọng ở bậc trung học như truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm, bà huyện Thanh Quan .v.v nhưng quả thật thơ văn và tên tuổi của bà đã là một huyền thoại của văn học Việt nam.
Người ta đã viết khá nhiều về thơ văn của bà , hầu hết đều có những nhận xét sau đây:
– Ám ảnh tình dục, tục tĩu và lả lơi.
– Thơ của bà hay, đơn giản, không dùng chữ văn hoa cầu kỳ, khách sáo và điển cố.
– Có tính cách mạng và can đảm, có một không hai trong thi ca Việt nam. Một loại thơ như vậy đã xuất hiện cách đây 200 năm, tác giả lại là một phụ nữ mà dám nói đến những điều cấm kỵ trong một xã hội cực kỳ nghiêm chỉnh với lễ giáo Khổng Mạnh, với thành kiến, luân lý, phong tục tập quán, đố kỵ với tình dục, sợ cái đó như sợ tà!
Người khen cũng nhiều mà người chê cũng không ít. Một cách tổng quát là có thán phục, trầm trồ khen ngợi văn tài của bà, nhưng không quên kèm theo những lời dè dặt và ái ngại vì có quá nhiều khiêu gợi dục tính. Có người đã dùng phân tâm học của Freud để phân tích, cho rằng sự bất mãn về tình duyên và sự khao khát dục tình đã làm nàng bị bịnh thần kinh! “Sự bất mãn ấy có thể kết cấu ra chứng bịnh để thay thế cho cái vui thú không liễu kết. Xuân Hương không thỏa thích dục vọng ắt mang lấy bịnh thần kinh…Xuân Hương cùng đường lắm nhưng không mất cả lý trí là nhờ nàng lấy thơ làm tâm phúc, đem bao tâm sự không thỏa mãn gởi cả cho thơ, trong lúc ngao du thưởng ngoạn các danh sơn cổ tích..” (Hồ xuân Hương, tác phẩn, thân thế và sự nghiệp, của Gs Nguyễn văn Hạnh, do nhà Đại Nam xuất bản)
Với một tấm lòng ái mộ người thơ, để thành kiến qua một bên, phá chấp, tôi thử nghiên cứu lại thơ của bà, lấy lòng của hậu thế để tìm hiểu người xưa đây.