TRUYỆN CHƯỞNG ƯU ĐÀM HOA
Tác giả: P. Kim Long
Đa số những truyện chưởng đều do người Hoa viết (chẳng hạn như Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Ngọa Long Sinh…) rồi sau đó một số dịch giả người Việt chuyển ngữ lại, chẳng hạn như Hàn Giang Nhạn, Từ Khánh Phụng (Tiền Phong, Xìn Phóng), Nguyễn Duy Chính, Vũ Đức Sao Biển…; nhưng với những tác phẩm của Ưu Đàm Hoa thì tôi không thấy đề tên dịch giả. Vốn ít đọc truyện chưởng và chẳng bao giờ mua truyện dịch (trước và sau năm1975) nên tôi không biết truyện chưởng của Ưu Đàm Hoa có xuất hiện trước năm 1975 hay không. Tôi chỉ thực sự biết đến tên Ưu Đàm Hoa do nhu cầu phải download một số truyện thuộc dạng prc hay mobi để đọc trên smartphone. Song đa số những truyện loại này (chưởng, kiếm hiệp, tiên hiệp, sắc hiệp, lãng mạn, tình cảm, trinh thám, khoa học giả tưởng, sex…) một khi được upload lên Internet thì đều được biên dịch một cách cẩu thả và có nhiều lỗi ngớ ngẩn làm độc giả phải bực mình: lỗi chính tả (thí dụ: mang mác, nghành, phản phất…; nếu là người Bắc 75 lại thì thường nói “ngọng,” chẳng hạn như: “tôi đói nắm, tôi ăn rất lo”), không viết hoa những nhân danh và địa danh (thí dụ: lão tử, nam kinh…), không chấm câu rõ ràng, không xuống dòng ở những đoạn cần thiết, câu văn dài dòng lê thê, không ngắt câu xuống hàng khi câu đó là câu đàm thoại (direct speech) lại được viết ngay sau câu không phải đàm thoại, hoặc câu đàm thoại của người này lại viết chung một dòng với câu đàm thoại của người kia…
Tôi cũng không biết lỗi về phần ai, song tôi nghĩ chắc lỗi do người nhập dữ liệu (vì vội, không chịu đọc lại, hoặc giả họ dùng máy dịch thuật, tức là nhờ trình dịch thuật của Google). Theo tôi, những lỗi trên nếu được khắc phục, chắc những truyện chưởng đề tên Ưu Đàm Hoa sẽ là tuyệt phẩm vì Tác giả mô tả, đề cập… đến những nét văn hóa cổ của Trung Hoa và Việt Nam, những phong tục, tập quán… của hai dân tộc. Lẽ dĩ nhiên, vì đó là truyện chưởng nên tất phải có những cảnh luyện nội công, bị tẩu hỏa nhập ma, tập quyền cước, vũ lộng đại đao, múa kiếm, phóng ám khí, đấm đá, vung chưởng ì xèo, phun độc khí cùng những cảnh máu chảy thịt rơi. Ngoài ra, cũng như những truyện chưởng khác, kết thúc “có hậu” (happy end) luôn luôn được thể hiện trong truyện của Ưu Đàm Hoa. Nhưng dù sao, tôi vẫn khoái Ưu tiên sinh hơn Kim Dung, Cổ Long, Ngọa Long Sinh… vì những lý do sau đây.
1. Thi ca
Có vẻ Ưu Đàm Hoa rất thích trích dẫn thi phú: dù truyện của Ưu tiên sinh chỉ dài bằng 1/3 hay 1/5 so với truyện của Kim Dung, song những nhân vật trong truyện lại thích ngâm vịnh những bài Đường thi của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị … Chẳng hạn truyện Hiệp Khách Hành (của Kim Dung) chỉ nêu 1 bài thơ Hiệp Khách Hành của Lý Bạch ở đầu truyện và Ỷ Thiên Đồ Long Ký cũng chỉ mở đầu bằng bài từ Vô Tục Niệm của Khưu Xứ Cơ (đạo hiệu Trường Xuân là một trong Thất Tử của Toàn Chân Giáo) ca tụng vẻ đẹp thánh thiện của Tiểu Long Nữ, hoặc cho nhân vật Quách Tường nghêu ngao một vài câu thơ hoài niệm khi rong ruổi ngựa đi tìm vợ chồng Dương Quá và Tiểu Long Nữ; trái lại, Ưu Đàm Hoa lại luôn luôn trích dẫn thi ca của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Hàn… mỗi khi “người hùng” đi tới một địa danh nào đó, thí dụ như Nam Kinh, Tô Châu, đền đài, lăng tẩm, chùa Thiếu Lâm… Sau mỗi bài thơ nguyên tác lại có bài thơ lược dịch. Có vẻ Tác giả là một nhà cuồng thơ ca, y như Bùi Giáng vậy: đi đứng cũng ra thơ… ; do vậy, những truyện chưởng này rất thích hợp cho những độc giả thích thi phú của Trung Hoa cổ đại.
2. Văn hóa & tôn giáo
Tác giả cũng nói rõ về văn hóa cổ cũng như tôn giáo của hai dân tộc Hoa và Việt. Tuy Tam giáo (Khổng, Phật, Lão) cùng hiện diện trên đất nước Tàu, song dân chúng đều theo cả ba tôn giáo một lúc: khi trẻ thì theo Khổng (học hành, thi cử, làm nghề văn hay võ…), khi về già (nhất là thất bại trong việc tìm kiếm công danh, mưu cầu phú quý…) thì lại theo Lão Trang, khi gần đất xa trời thì lại theo Phật (để ăn năn xám hối, hoặc để tránh họa hoạn trong kiếp lai sinh). Song đa số thường chạy theo nghi lễ của Đạo giáo (tức là một biến thể của đạo Lão): họ tin rằng, nếu người chết không chịu cúng tế, không mời Đạo sĩ tới làm ma chay, tụng niệm, đọc thần chú, làm bùa phép, đốt vàng mã… thì người chết sẽ bị tai kiếp dưới địa ngục, còn thân nhân sẽ gặp xui xẻo… dù Phật giáo luôn chủ trương không mê tín dị đoan và không đốt vàng mã. Do vậy, ma chay là một dịp tang gia tốn rất nhiều tiền bạc cho bọn Đạo sĩ. Như vậy, tục ma chay của người Hoa và Việt hơi khác nhau: người Hoa theo Đạo giáo, còn người Việt theo đạo Phật hay Ông Bà nên đỡ tốn kém và bớt phiền hà. Nhân vật Đặng Trinh Tâm, khi sống bên Tàu, đã phổ biến văn hóa của người Giao Chỉ bằng cách theo chế độ nam nữ bình quyền (vốn là đặc điểm của chế độ “mẫu hệ” của xứ sở Giao Châu), do vậy, người chồng, dù là Hoa chính gốc, cũng phải cùng vợ mưu sinh và không vợ nọ con kia.
3. Phong tục & tập quán
Tác giả nói về tục nhuộm răng của người Giao Châu (Giao Chỉ, An Nam) hiện sinh sống ở bên Tàu về thời nhà Minh vì họ là tù binh bị bọn Trương Phụ bắt về Tàu sau khi Hồ Quý Ly đầu hàng nhà Minh và nhất là hậu duệ của nhà Trần (như Trần Quý Khoách) khởi binh bị thua trận nên đàn ông (bất kể trí thức hay thợ thuyền) đều phải làm nô dịch còn phụ nữ thì là nô tỳ, tôi đòi cho đám công hầu khanh tướng bên Tàu. Do vậy, những tù binh (nam và nữ) thế hệ thứ nhất đều nhuộm răng đen, còn thế hệ thứ hai trở đi không còn nhuộm răng đen nữa vì họ gần như bị đồng hóa với dân bản địa. Một số tù binh nam vì một lý do đặc biệt đã mua được tự do, đã ra ngoài sinh sống bằng nghề buôn bán (bán cháo lòng, làm thịt chó vốn là những món mà người Tàu chưa hề biết) nên vẫn đùm bọc lẫn nhau.
4. Ẩm thực & y dược
Tác giả nói rằng thuở đó bên Tàu (về thời Nhà Minh) dân chúng không biết món “mộc tồn” (thịt chó) do vậy, khi đám tù binh Giao Châu bị bắt về Tàu để làm nô bộc, thợ thuyền… đã phổ biến món thịt cầy này. Một số tù binh nữ đã lấy chồng là người Hoa đều được ra ngoài sinh sống nên có thể làm nghề bán thịt chó và cháo lòng… vì ở bên Tàu từ thời xa xưa đã không hề có mon này. Dân Giao Chỉ đã biết kết hợp thịt chó với lá mơ tam thể để tăng thêm hương vị đậm đà cho món thịt chó, song người Tàu lại gọi là “trung tiện diệp” (lá có mùi thối như mùi rắm mà người Nam gọi là “lá thối địt”). Ngoài ra, hàng năm Nhà Lê phải cống hiến 2 tượng vàng (to bằng người thật) để chuộc lỗi đã giết tướng Liễu Thăng ở ải Chi Lăng, một số ngọc ngà châu báu, vải vóc tơ lụa cùng một số “chất xám” (tức Nho sĩ, thợ thuyền có tay nghề cao…) để mẫu quốc kìm hãm sự phát triển của thuộc quốc. Chính những chất xám này đã làm vẻ vang cho nước Tàu về sau này. Cháu thúc bá của Đặng Dung, vốn là con trai của hai dòng máu Hoa và Việt, đã chữa khỏi chứng bệnh bất lực của Hoàng đế Tàu đang trong tuổi thanh xuân bằng “bát bảo” (tám vị thuốc) hầm với “hắc cẩu” (chó mực). Trong thời gian lánh nạn bên Tàu và sống với chồng con, Đặng Trinh Tâm đã làm “đại phu” (thày thuốc) trị liệu cho người Hoa lẫn Giao Chỉ, song Bà thường xuyên trị liệu từ thiện cho bệnh nhân nghèo khó bất kể sắc tộc nên được mọi người kính phục mà coi như một nữ Bồ Tát. Trong nhiều truyện chưởng (Bích Nhãn Thần Quân, Sơn Quỷ…) của Ưu tiên sinh thường đề cập tới món ăn khoái khẩu của Bang Chủ cùng những Trưởng Lão là “thịt cầy” vì đám ăn mày không dư giả tiền bạc nên chỉ có thể mua nổi chó để chế biến làm 5 món dựa mận khác nhau. Ngoài ra, giới giang hồ võ lâm thường mang theo đồ ăn mỗi khi lỡ độ đường giữa rừng sâu không quán xá, hoặc để thết đãi nhau. Đồ ăn này là: khô bò, khô nai, khô mực, thịt trâu luộc và lạp sường. Trong truyện chưởng thường đề cập tới món ăn “xách tay” (như Fast food, Hamburger thời nay), đó là bánh bao, tức màn thầu (nhân thịt hay chay) của giới giang hồ thường mang theo khi không gặp hàng quán.
Giới giang hồ (nam hay nữ) thường uống rượu như hũ chìm. Tên loại rượu nổi tiếng là Thiệu Hưng, rượu Phần Sơn Tây (còn Kim Dung lại nói là Nữ Nhi Hồng). Song tôi rất ngạc nhiên về tửu lượng của họ: họ coi rượu như nước lã; do vậy, tôi nghĩ rượu về thời đó chắc độ cồn không nặng lắm: chỉ độ dưới 10 độ (bia 33 là 8 độ), còn Wisky hay Vodka là 40 độ. Nếu độ cồn nặng (như Alcohol trong y khoa dùng làm chất sát trùng là 90 độ) thì họ đã cháy ruột rồi. Do vậy, rượu về thời đó chắc nhẹ như rượu trái cây bây giờ (quãng 5 tới 10 độ). Ngoài ra, trong truyện không dùng đơn vị đo lường chất lỏng là “đẩu” (dou = 10 sheng) hoặc “thăng” (sheng = lít bây giờ) mà lại dùng “cân” (jin) vốn là đơn vị về trọng lượng tương đương với ½ ký bây giờ. Do vậy, tôi đoán là ngày xưa người ta đổ rượu vào bình, rồi cân đúng 1 cân (½ ký bây giờ) để tính tiền.
(Xem tiếp trang 2)