Category Archives: VĂN

Viết cho đỡ căng

ba tôi

Ba tôi
Thái-Vinh

Đang đánh răng, chợt ngó vô gương soi mặt, tôi lặng người. Từ ngày Ba tôi mất, gặp người quen, ai cũng nói tôi giống Ba như đúc. Tôi không tin lắm, vì tôi không có vầng trán như em trai út rộng mênh mông giống Ba. Hôm gặp lại em; cùng ngắm kỹ, hai anh em đồng ý là tôi giống Ba hơn một chút. Hèn chi, năm nào cháu tôi làm tiệc cưới ra mắt bà con và bạn bè bên Mỹ, cháu nhờ tôi làm trưởng tràng bên đàng gái “Tại vì cậu Ba giống ông Ngoại như đúc!”

Nhưng tôi sợ giống Ba tôi lắm, vì ông có khuôn mặt rất oai, không giận mà nghiêm. Mỗi lần làm gì sai quấy, nghĩ tới Ba là anh em tôi hết muốn sống! Chỉ cần nghe tiếng Ba kêu rền núi, anh em tôi ở xa cách mấy cũng giật mình xanh mặt, muốn bỏ nhà lủi trốn luôn, nếu không nhờ nghĩ tới nhà còn một cây cột chống trời là Mẹ mới dám trở về! 

Tuy dữ với con, nhưng Ba tôi lại hiền lành và tử tế với người ngoài. Ông được mọi người kính trọng. Tiệc tùng lễ hội gì, ông đều được mời ngồi ghế đầu, vì ông làm Đại Diện Xã lâu năm. Mọi việc từ ký giấy khai sanh đến giấy khai tử, mở mang trường học, đắp đập dẫn nước, hay hướng dẫn lính dân vệ đi phục kích bắn mấy anh tập kết lén lút trở về làng, kể cả việc lo lắng tình cảnh goá bụa, hay cô đơn lâu năm của các bà có chồng đi tập kết… Ba tôi đều làm tròn nhiệm vụ dân cử và dân cần. 

Mọi việc bên ngoài, Ba tôi đều có sách lược và chương trình làm việc rất đàng hoàng và được lòng dân; nhưng ngày còn bé, tôi có ý tưởng rất dại khờ là mong sao cho Ba chết sớm để vui đùa nghịch ngợm cho đã! Tôi ao ước sao Ba tôi hiền lành như bác Hương Kiểm Nhàn trước nhà, không bao giờ la hét đánh con! Kẹt quá, Ba tôi lại rất thông minh, anh em tôi không tài nào qua mặt được, ngoại trừ việc mặc thêm hai ba cái quần dày cộm để chịu đòn! Chỉ còn một con đường duy nhất cho anh em tôi đi, là con đường học vấn để mau chóng xa nhà và nhất là xa Ba; nhưng dễ gì xa ngay một cái rụp được! 

Một hôm có khách đến chơi, Ba đưa tiền sai tôi đi mua trà. Cưỡi xe đạp xuống chợ, ngang qua gian hàng bầu cua, tôm cá, gà nai của chú Long Lãi, thấy đông người kiếm tiền quá dễ khiến tôi nổi máu tham! Lúc đầu kiếm được 10 đồng, hào hứng không chịu về; ngồi thêm một lát, thua sạch tiền mua trà! Ngó lại phía sau, cái xe đạp không cánh cũng bay mất tiêu! Tôi điếng hồn, trốn luôn tới tối mới dám mò về ngả sau đình, gõ cửa nhè nhẹ: 

– Hoa ơi, Ba ngủ chưa? 

Em gái tôi mở cửa, càu nhàu: 

– Anh Ba đi đâu suốt cả buổi chiều? May cho anh đó; Ba không về tối nay! 

– Tao làm mất cái xe đạp rồi! 

– Ba sai anh Hai xuống chợ tìm anh, thấy anh đang chơi Bầu Cua, ảnh mua trà và lấy xe về rồi! 

Nếu tôi giống Ba ở khuôn mặt, em út tôi giống Ba ở vầng trán, thì anh Hai tôi giống Ba ở tính tình! Làm tôi bị đòn nhiều nhất là tại anh Hai! 

Anh Hai từ từ xa nhà trước. Tôi ở nhà làm con trai độc nhất của Ba vì em trai út chưa ra đời; thỉnh thoảng được Ba cưng cho trèo lên nóc nhà ngủ với Ba dưới bầu trời đầy trăng sao và bóng lá dừa đong đưa che mặt rất êm dịu. Ba tôi không ưa truyện kiếm hiệp, vì toàn chuyện tán gái lăng nhăng, Ba đều làm được cả; duy chỉ có nhạc và thơ thì Ba tôi chịu thua, nên tôi thường nhờ ánh trăng đọc thơ ru Ba ngủ. 

Mấy năm sau tôi theo gót anh Hai đi học xa nhà. Mỗi năm mới được về một lần vào dịp Tết. Nghe tôi về, bạn gái kéo đến thăm. Thấy toàn nữ sinh, Mẹ tôi không ưa, vì trong thâm tâm bà đã chọn cho tôi một cô vợ trong đám nhân công quấn thuốc rất hiền lành rồi. Mẹ trách yêu: “Mày giống Ba như đúc!” 

Nghĩa là tôi giống Ba chuyện bồ bịch đó! Ba tôi đâu thèm tranh cãi ba cái chuyện nhỏ nhặt ấy. Mấy ngày Tết, ông cưỡi xe đi thăm bạn gái! 

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam sụp đổ tan tành cũng là ngày tôi nhảy xuống thuyền xa luôn quê hương và xa gia đình. Khi thằng Sơn bỏ cuộc chờ thuyền ở bến Khánh-Hội, cầm mảnh giấy tôi viết vội vài dòng về báo tin cho anh Hai biết là tôi đã ra đi. Buổi chiều đó nghe thuyền đi, lớp bị bắn, lớp bị chìm… em gái út và anh Hai chỉ còn biết khóc! 

Suốt năm tháng bị kẹt ở Hồng-Kông, và sau đó được định cư ở Mỹ, bao nhiêu thư từ gửi về gia đình đều bị ông Hoàng ở trước nhà giấu hết, làm cả nhà tưởng tôi đã chết! Ông Hoàng xưa kia làm nghề lái xe Lambretta lén chở súng đạn cho Cộng sản giấu trong các bao than củi đem vào thành phố, sau ngày cách mạng thành công, ông được làm xóm trưởng. Thấy mình có công mà chỉ được chức xóm trưởng quèn, thua xa chức Đại Diện Xã của Ba tôi ngày xưa khiến ông ghen tức chăng? 

Gần hai năm sau, nhận được thư anh Hai gửi qua, tôi khóc ngất… “Vinh ơi, có bao giờ em thấy Ba khóc chưa? Vậy mà Ba đã khóc! Ba họa bức hình em thật to treo trên bàn thờ gần hình anh Ngọc!”

Mẹ ơi!

Mẹ ơi!
Thái-Vinh 

Trên thế giới có một nơi không nằm trong số những nơi tôi ao ước đến thăm một lần trước khi chết là Phi Châu vì Phi Châu luôn bất ổn và là ổ của các nhóm khủng bố coi Mỹ là kẻ thù không đội trời chung. Mẹ con nàng còn có quốc tịch Pháp phòng hờ; chứ tôi chỉ có mỗi một cái quốc tịch Mỹ, nếu bị khủng bố bắt cóc đòi tiền chuộc thì mẹ con nàng làm gì có tiền; chắc chắn đành nhìn tôi chịu chết? Ấy vậy mà tôi sắp theo mẹ con nàng đi Phi Châu! 
Còn hơn một tháng trước ngày đi Phi Châu, mẹ con nàng đang dạo chơi tại khu du lịch núi Bà Nà Đà Nẵng vùng lấy xe lửa đột xuất về Diêu Trì thăm mẹ tôi một đêm. Đêm đó, nàng đã tiên tri và gửi tin nhắn khuyên tôi nên lập tức rủ tất cả các con của mẹ cùng về thăm một lần; đừng đợi mẹ mất rồi mới về! 
Chỉ sau một tuần kêu gọi, Minh-Chi, em gái út của tôi ở Mỹ lo lắng không thể ngủ được, liền bay về ngay với mẹ. Em là người con duy nhất được vinh dự chăm sóc mẹ và gần gụi với mẹ nhất. Gần ba năm trước, em phải xa mẹ để sang Mỹ chăm sóc con gái và cháu ngoại mới sinh; mẹ phải về ở với gia đình cháu Tuyến, con trai trưởng của em, được sự chăm sóc chu đáo tuyệt vời của cô cháu dâu Tuyết-Mai và chị Lợi giúp việc; lại có thêm hai chắt ngoại là Bảo-Trâm và Thành luôn quấn quýt bên bà. Tôi đã đi xe trong mùa bão năm 2017 về thăm mẹ. Lúc đó mẹ đã không còn nhớ đứa con xa mẹ lâu nhất; nhưng sức khoẻ của mẹ vẫn ổn. 
Sau đó Ái-Hoa, em gái kề tôi cũng đã bay về bên mẹ được một tháng, rồi lại đi. 
Sáng sớm ngày 12 tháng 4, nàng và tôi chia tay nhau tại phi trường Phoenix. Nàng đi Philadelphia và sẽ cùng con gái bay qua Phi Châu như chương trình đã soạn; còn tôi về Sài Gòn. Lợi dụng được nghỉ thêm ba ngày, tôi bay ngay lên Đà Lạt thăm mẹ vợ mà tôi rất yêu mến gọi là Mẹ Đẹp (belle mère) vì biết một khi đã về với Mẹ Đẻ thì tôi sẽ không còn tâm hồn nghĩ về ai nữa. 
Đêm mưa Đà Lạt nằm trằn trọc một mình trong căn phòng cũ trên lầu, tôi gửi tin nhắn cho em gái: 
– Anh thức dậy từ 2 giờ sáng. Buồn quá; ngủ không được! 
Lập tức nhận được tin nhắn trả lời chung cho “Các Con Của Mẹ”: 
– Em cũng dậy vỗ lưng cho mẹ từ nãy giờ. Mới đây mẹ vừa lên cơn mệt; thở không nổi, miệng há hốc giống như muốn trăng trối hay nuối một ai đó. Phải đỡ ngồi dậy đấm lưng mới tạm ổn. Mỗi ngày 3-4 lần như thế. Bây giờ mẹ mới ngủ ngon. Toàn thân mẹ hư hao không sót chỗ nào. Nhìn mẹ mỗi ngày như thế em quá đau lòng! 
Anh tôi là bác sĩ; vì lý do sức khoẻ không về được cũng chỉ biết khóc “chứ biết làm sao bây giờ?” 
Hai đêm ở trong một biệt thự rộng lớn bao quanh bởi khu vườn đầy hoa và cây ăn trái chỉ có hai mẹ con tại Đà Lạt; tôi thật sự được sống trọn vẹn làm một đứa con của mẹ đẹp. Ngay buổi sáng đầu tiên, sau khi ăn “Bánh Mì Xíu Mại Chén” hai mẹ con đi ra Phương Trang mua vé xe; hôm ấy không có xe. Mẹ về lấy len sợi ra tiếp tục đan móc; tôi đánh bộ ra phố nhờ Dũng chở đến Ga Đà Lạt mua vé xe lửa. Sáng hôm sau tôi đi, mẹ gửi chiếc áo len tặng cháu Thái-Thanh để mai sau còn có kỷ niệm nhớ ngoại. 
Chiều ngày 16 tháng 4 tôi đi xe lửa về tới nhà. Mẹ cũng đã được đưa từ nhà cháu ngoại về nhà của mẹ từ tuần trước. Mẹ ngủ li bì, không lộ vẻ đau đớn, chỉ có hơi thở khó khăn. Em tôi đánh thức mẹ dây. Mẹ mở mắt nhìn tôi, đứa con được cho là giống ba nhất vui mừng gọi “Mẹ ơi, Vinh đây mẹ!” Nhưng đôi mắt mẹ mệt mỏi khép lại. 
Tôi tham gia ngay vào việc săn sóc giúp mẹ ăn uống, tắm rửa, uống thuốc, xoa bóp… Thức ăn có cháo cá hay cháo tôm xay nhuyễn, sữa Ensure, nước yến, nước cam vắt, nước dừa… toàn là những món ngon dễ nuốt. Trước đây một tháng mẹ còn tự hả miệng mỗi khi thấy thìa thức ăn, và còn tự nhai nuốt dù không còn răng. Bây giờ phải cần hai người; một người ngồi ôm mẹ, và một người cho ăn. Ăn và thở bằng miệng nên cho mẹ ăn cũng phải kiên nhẫn và dịu dàng như cho em bé ăn. Tôi ngồi ôm mẹ trong vòng tay, nở nụ cười héo hắt, véo môi đánh thức mẹ “Em bé ngoan! Hả miệng ra, ăn cho chóng lớn anh thương nhé?” 
Mỗi sáng sớm, bồng mẹ tắm rửa rất khó khăn mà xót xa đau lòng vì mẹ nặng như cục đá đúng như anh tôi đã nói ba cơ quan có thể gây ra nước ứ đọng là tim, thận, hay gan của mẹ đã bị trục trặc rồi! Chắc mẹ đau đớn lắm, nhưng không hề rên la! 
Em tôi đùa: 
– Hôm nọ có ông thầy coi tướng mẹ, rồi quả quyết bà cụ sẽ sống thêm ít nhất hai năm nữa. Tháng 8 em đi; anh thay phiên về chăm sóc mẹ nha? 
– Vậy anh phải về Mỹ sắp đặt lại. Cần phải tìm thêm một người làm nữa để phụ cô Lợi. Này cô Lợi, cô có thể tìm giúp một người có sức khoẻ phụ cô, được không? 
Lợi nói ngay: 
– Ông xã của con? 
Em tôi xua tay phản đối: 
– Vợ chồng mày mỗi tuần gặp nhau hai ngày làm tao đã chới với; còn bày đặt gặp nhau mỗi ngày, ai trông mẹ tao? 
Hai ngày cuối tuần, cô Lợi về nhà. Nghe bạn bè gọi điện rủ em gái họp bạn, tôi bảo “Em nên đi ra ngoài chơi với các bạn cho thư giãn một lúc; anh ở nhà trông mẹ được.” 
Nhờ cô y tá Hà mượn được cây đàn, tôi ngồi bên mẹ trong ngôi nhà vắng vẻ buồn hiu, chảy nước mắt hát đi hát lại bài “Mẹ Là”, thơ của Lê Trọng Nghĩa do Trịnh Hưng phổ nhạc: 
Mẹ là tất cả ý thơ 
Mẹ là muôn triệu giấc mơ êm đềm 
Mẹ là bài hát thần tiên 
Mẹ là giọng nói dịu hiền thiết tha 
Mẹ là biển rộng bao la 
Mẹ là gió mát, mẹ là trăng thanh 
Mẹ là trái ngọt cây lành 
Mẹ là trái chín trên cành đợi con… 

Ngày Chúa Nhật 21 tháng 4, tôi đang tha thiết cầu nguyện xin Chúa Giê-su cứu vớt mẹ thì nhận được tin nhắn của Anh-Tiến, bạn học cũ từ Sài Gòn: 
– Gửi lời thăm đến gia đình bạn nhân ngày lễ Phục Sinh. 
Tôi vui mừng, trả lời ngay: 
– Trong cơn gian nan, một cái tin nhắn thân tình ngắn ngủi của bạn cũng đủ giúp tôi cảm thấy bình an. Bình an đối với tôi không phải dành cho người thiện tâm mà chỉ vì tôi ôm người mẹ thương yêu đang chết dần trong tay làm tâm hồn tôi đau đớn, và tôi tìm đến lời Chúa “Thầy để lại bình an cho các con” như một liều thuốc an ủi xoa dịu tâm hồn! 
Tôi lại nhận được tin nhắn của Kim-Quy từ Paris, cô bạn vui tính của trường Nữ Công Gia Chánh năm xưa: 
– Hôm nay bà cụ thế nào rồi anh? 
– Tôi không biết nói thế nào vì bà không mở mắt, không cử động, trừ cái miệng dùng để thở và uống sữa! 
– Quy đã nói với anh là thận hư sẽ làm cho hôn mê đến khi bà đi cũng sẽ không tỉnh lại đâu. Chờ ngày giờ tốt để đi thôi! 
Tôi từ chối, không tin mẹ sẽ bỏ các con. Mẹ còn chờ gặp anh Hai, em Bốn, và chú Út? Sáng nay, tôi bế mẹ ra ngoài tắm rửa. Tay mẹ vẫn tự nắm chân ghế thật chặt vì sợ té. Bên tai tôi văng vẳng lời thầy tướng “Bà cụ sẽ sống thêm ít nhất hai năm nữa.” 
Tôi gọi điện nhờ cô bạn là Giám đốc Phòng Khám Đa Khoa giúp cho việc thông nước phù ứ trong người mẹ. Cô nói ngày nghỉ tìm người rất khó, nhưng sẽ cố gắng. Buổi trưa hôm đó, cô đến với bác sĩ Trưởng Khoa Hồi Sức Nội, Thạc sĩ Y khoa, Tu nghiệp tại Pháp, Chuyên khoa Nội tổng quát – Tim mạch… Ông không thông nước phù ứ, mà khuyên phải gia tăng thức ăn có chất đạm mỗi ngày ăn ít nhất 6 bát đầy, rồi ông cố đút ống dẫn thức ăn qua mũi vào dạ dày ba lần thất bại khiến mẹ đau đớn làm em tôi sợ hãi, xin ông đừng đút ống nữa! Ông bảo đổi sữa Ensure ra Abbott chỉ có bán ở tiệm ông chỉ định, và mua loại băng keo dán vết thương bị loét, vài loại thuốc linh tinh chỉ có bán ở phòng mạch của ông chiều nay, và khuyên nên mua nệm hơi chống loét cho mẹ nằm… Tiền công cho chuyến thăm bệnh quá rẻ, chỉ một triệu đồng. Trước khi đi, ông còn hỏi tôi ở Mỹ đã có thẻ xanh chưa làm tôi sửng sốt! 
Tôi nhất định không đến phòng mạch của ông lấy thuốc; nhưng em tôi sợ phụ lòng tốt của cô Giám đốc Phòng Khám Đa Khoa nên đề nghị cứ đi lấy thuốc, nhưng không dùng! 
Rất may có Hà, cô y tá của Phòng Khám Đa Khoa đến thay băng vết thương cho mẹ, đã tư vấn rất hợp ý chúng tôi “Hãy quên vị bác sĩ ấy!” 
Nhưng tôi đồng ý một đề nghị của bác sĩ ấy là phải mua một cái nệm hơi chống loét cho mẹ nằm. Sáng hôm sau, ngày 22 tháng 4 cháu Tuyến chở tôi đi tìm một cửa hàng vật tư y tế mua được một cái nệm hơi chống loét và một cái ghế ngồi tắm bằng kim loại vững chắc để thay thế cái ghế nhựa khoét lỗ mong manh. Lúc ra xe, điện thoại đang reo liên tục. Tôi bàng hoàng nghe giọng Tuyết-Mai hoảng hốt gọi chồng “Về gấp! Ngoại mất rồi!” 
Về nhà thấy khách quen, lạ ngồi đầy. Mẹ tôi hiếm khi được nằm ngửa ngủ say. Tôi ngậm ngùi vuốt mắt mẹ, hôn mẹ, và nói thầm lời vĩnh biệt: 
Mẹ ơi, mẹ đã sống một cuộc đời mà con cho là “oanh liệt” không thiếu một việc gì khó khăn mà mẹ không làm. Mẹ đã sống vượt quá ước mơ nên con đã dặn các em và con cháu không có gì phải than khóc buồn rầu…
Lúc này hàng chục người đang bàn thảo sôi nổi về tang lễ. Tôi là người trưởng tràng trong gia đình vì anh chị tôi không về được. Tôi chẳng biết gì nên giao hết cho cháu Tuyến là con trai trưởng của em tôi lo liệu. Tôi rút vào phòng riêng trên lầu một mình cầu nguyện bỏ cả ăn uống. Tôi muốn khi chết, tự chống gậy ra nghĩa trang cho đỡ nhức đầu! 
Khi màn đêm buông xuống, người thân quen và hàng xóm kéo đến càng lúc càng đông. Tiếng kèn ta và đàn cò của Ba Khởi, đàn Hạ Uy Di của Sáu Giáo, tiếng trống cơm của Long Bong nổi lên, vui như đám hát làm tôi tò mò xuống coi. Em tôi đang ca, chợt thấy tôi liền trao máy; sẵn máu văn nghệ, tôi hát luôn mấy bài. Cổng sắt đã được tháo ra. Đêm canh quan tài với những nhân vật như Sáu Dõ, Sáu Trị, Bảy Út, Tùng Bơ Vơ… uống rượu bia như uống nước lã, thức luôn tới sáng. Dịch vụ mai táng bao thầu hết. Muốn kèn tây có kèn tây. Ngoài “Thuận Kèn” thổi xaxophone riêng một ngày, còn có một đội kèn tây với 8 nhạc sĩ mặc đồng phục thổi xaxophone, trombone, French horn, đánh trống và hát các bản nhạc buồn Bolero làm đê mê tâm hồn các cô gái quê thích hát Karaoke. Ngoại trừ một ngày hai lần tụng kinh hiếu kính cúng cơm dâng mẹ do hai sư cô điều khiển theo nghi thức tang lễ Phật giáo hơi dài cộng với thời tiết nóng bức làm người tham dự mệt mỏi thì tang lễ ngày nay ở Việt Nam là một ngày vui (nếu không chết trẻ). Đặc biệt màn biểu diễn lễ di quan có Ông Địa, Bát Giái, Tề Thiên Đại Thánh… trổ tài làm cả xóm đổ xô ra coi chật cứng! 
Tôi nghĩ nếu mẹ tôi linh thiêng được chứng kiến trọn bốn ngày tang lễ có mặt con cháu, bà con, bạn bè thân quen gần xa, có rất nhiều vòng hoa đẹp chia buồn, và có cả tiếng trống tiếng kèn vui như Tết tiễn mẹ ra đi về miền tiên cảnh chắc hẳn mẹ rất vui lòng? 
Tôi cũng nghĩ đến một ngày nào đó già yếu không còn ai thương nữa, tôi sẽ quay về cố hương nhờ một cô mạnh khoẻ săn sóc làm bạn vui chơi cho đến lúc chết cũng vui vì chết không còn là việc riêng mà là việc chung của mọi người trong làng xóm và bà con. 
Cuối tháng 4 tôi trở về Mỹ một mình với nỗi buồn của đứa con vừa mất mẹ thì nhận được tin nhắn của Kim-Quy: 
– Chúc mừng anh trở về nhà an toàn. Mẹ anh thương anh quá hé? Bà cụ đi đúng lúc để cho anh lo xong mọi việc đâu đó rồi đúng ngày lên đường không phải trở đi trở lại. 
Tôi buồn rầu: 
– Chắc bà cụ nghe tôi nói chuyện với em gái nên bà quyết định ra đi trong lúc tôi còn 6 ngày nghỉ. Tôi đã đi mua nệm chống loét và ghế tắm rửa cho mẹ vì không ai muốn mẹ mình chết cho dù cô đã cảnh báo ngày đi của mẹ gần kề! 
– Anh đã làm đúng tất cả cho mẹ để không phải ân hận mỗi khi nghĩ lại. 
– Cô nói thế cho tôi đỡ buồn, chứ tôi nghĩ mẹ đã cố gắng suốt mấy năm chờ gặp lại tất cả các con của mẹ lần cuối mà đành nhắm mắt buông xuôi! 
Tôi viết vài dòng gửi chung với cái video tang lễ mẹ cho anh tôi “Anh ơi, bây giờ anh em mình đều trở thành những kẻ mồ côi cha lẫn mẹ; nhưng may mắn là anh và em đều còn một bà mẹ khác là Mẹ Đẹp (belle mère). Vậy hãy thương yêu và giữ gìn bà Mẹ Đẹp nhé?” 
Tôi ngã bệnh kéo dài hai tuần lễ, phải đi bác sĩ. Hôm nay ngày 12 tháng 5 là “Ngày Cho Mẹ” (Mother’s Day), tôi ra trước nhà chụp bức hình “Hoa trắng dâng lên Mẹ hiền” đăng trên Facebook. Ở tiệm, một vị khách cằn nhằn với tôi về giá tiền quá đắt của bó hoa hồng và tấm cạc “Happy Mother’s Day”. 
Tôi hỏi: 
– Anh có muốn để dành tiền tấm cạc không? 
Anh cười thích thú: 
– Làm thế nào? 
– Hãy ngồi với một cây bút và tờ giấy trắng, viết một kỷ niệm vui về mẹ. 
– Thế còn bó hoa hồng? 
– Tôi vừa mất mẹ, xin chúc mừng anh còn mẹ để tặng hoa! 
Mẹ ơi, năm xưa còn bé, một lần thấy đám tang trong xóm, con có điều ước dại khờ là mong một ngày được mặc áo trắng và chít khăn tang như mấy đứa bạn nhỏ mất người thân. Nay gần cuối đời, con thật sự được mặc áo trắng và chít khăn tang thì đã mất mẹ… Mẹ ơi!

Thấy mèo nhớ chó

Thấy Mèo nhớ Chó
Thái-Vinh tặng Má, người thương chó nhất đời
(Đã đăng trong nguyệt san Bút Tre số tháng 1 năm 2011) 

Tôi không thích mèo! 
Nói xong tôi bỗng giật mình. Đàn ông nào lại không thích mèo; nhất là loại mèo biết lườm nguýt và nũng nịu duyên dáng lại biết sợ chuột nè? 
Còn loại mèo bốn chân biết bắt chuột, tôi cũng thích. Nhưng vì có duyên với chó; mà mèo với chó chọi nhau như nước với lửa nên cả đời tôi chưa bao giờ có mèo, và mỗi lần thấy mèo tôi lại nhớ chó. 
Tôi đã đọc đâu đó trong một cuốn truyện cổ tích Tây phương, thấy chuyện chó tìm đến ở với loài người rất tình cờ. Thoạt đầu, trên bước đường lang thang chó và mèo kết bạn sống chết với nhau; nhưng mèo lười biếng, thường giả bộ nhức đầu và ăn ít, cứ nằm nghỉ mệt, bắt chó vất vả lo tìm thức ăn nuôi mèo. Chó mệt chịu hết nổi phải chia tay. Ít lâu sau, chó gặp chồn. Thấy chồn nhanh nhẹn và lém lỉnh, chó bèn kết bạn; nhưng đến lúc tìm được thức ăn, chồn thường lẩn tránh, ăn lén một mình. Chó lại chán nản bỏ đi. Rồi một hôm gặp thỏ. Thấy thỏ siêng năng và thành thật, chó lại kết bạn; cả hai có vẻ tương đắc với nhau lắm. Nhưng tình bạn giữa chó và thỏ cũng không được bền lâu vì một hôm gặp thú dữ, chó liều chết chống cự; còn thỏ vừa thấy nguy đã co giò chạy trốn. Chó buồn bã bỏ đi lang thang một mình đến gốc cây kia thấy một người đi săn đang nằm ngủ, chó tò mò lại gần liếm tay muốn kết bạn. Người đi săn thức dậy, thấy con vật dễ thương bèn ve vuốt và chia thức ăn; rồi chó cũng bắt chước chạy theo người, săn đuổi và nhặt mồi suốt ngày hôm ấy. Người đi săn thấy vậy rất bằng lòng bèn đem chó về nhà. 
Tôi không thích cách giải thích tình cờ của Tây phương cho lắm vì tôi chịu ảnh hưởng của Má tôi về tình yêu thương thú vật của bà để mai sau lỡ xuống cõi âm được chó dắt chủ vững bước qua cầu Nại Hà vào phủ Luân Hồi đầu thai chuyển kiếp tránh sa vào địa ngục tăm tối, và cũng theo tinh thần Phật giáo qua thuyết luân hồi Má tôi cho kiếp trước chó là một con người vô nghĩa bất trung, nên kiếp nầy phải chịu quả báo làm kiếp chó trung thành để trả nợ. Vì vậy tất cả những con chó mà Má tôi nuôi hay chó đói và chó hoang tự tìm đến tị nạn, Má tôi đều thương yêu và săn sóc như những đứa con riêng của bà. Đến mùa động tình, chó chưa thiến dái rạo rực chạy rông suốt đêm. Má tôi đang ngủ chợt tỉnh dậy thấy mất con Tý Nô, bà vội vã cầm roi đi tìm. Thấy ở chỗ tối dưới gốc đa con Tý Nô đang cùng bạn gái chung đít nhe răng chống cự với một lũ chó đực khác đang tức giận sủa khan tiếng, bà bèn quất cho mỗi đứa một roi đuổi chạy tan tác và kéo Tý Nô phải bỏ cuộc vui đem về bắt ngủ dưới đít giường khiến nó bực mình rên rỉ làm cả nhà đều mất ngủ. Chúng tôi bênh Tý Nô, thì bị Má rầy là nó còn nhỏ mà biết chơi bời sớm sẽ bị mất sức! Ba tôi nghe vậy biết bị nói xỏ xiên nên bực mình đứng dậy bỏ đi. Vì vậy tuổi về già mà hai ông bà vẫn thường hục hặc. 
Má tôi cậy có con cháu ở nước ngoài, nên đặt tên con chó cưng của bà là Tý Nô đọc ngược lại là Tony để lấy le với các bà hàng xóm; chứ hồi xưa, những con chó của Má tôi đều mang những cái tên rất tầm thường đặt theo màu lông như chó Mực, chó Vàng, hay chó Mốc… Con chó Vàng của Má tôi là một con chó đẹp chiến nhất xóm; nhưng vì chuyện tình ái không biết mệt của nó đã làm cả xóm mất ngủ triền miên. Nhân lúc Má tôi đi buôn xa, Ba tôi và chú Bảy Phụng bèn bắt thiến đi. Nó đau đớn bỏ nhà chạy lên núi trốn mấy ngày; ít hôm sau trở về biến thành một con chó mất hồn. Khi chúng tôi dọn về nhà mới, bắt nó bịt mắt bỏ theo xe. Về nhà mới, ở được ít hôm nó tự tìm đường về lại nhà cũ và chết già ở đó mấy năm sau. 
Còn con chó Mốc, ban đầu là chó của ông Xã Quyền hàng xóm nuôi để ăn cứt con gái mới đẻ của chị Bốn Hạnh. Nó chán ăn món cũ nên thường lén chun rào qua ăn cơm ké với con chó Vàng. Thấy nó có khiếu cắn mổ, anh tôi tập nó thành chó săn; nhưng vì cái đuôi của nó quá dài, lúc chạy cứ dựng đứng phất phơ làm chồn nhím vừa thấy lá cờ của nó đã chạy trốn hết. Anh tôi bực quá, bèn dụ cho nó ăn bên nầy hàng rào, để anh Ba Khương đứng bên kia chặt đứt đuôi! Từ ngày rụng đuôi, con chó Mốc điếng hồn đành trở về nhà cũ! 
Tôi không bao giờ dám nghĩ tới chuyện nuôi một con chó vì hình ảnh con chó Vàng bị thiến mất hai hòn bi mất đi niềm vui duy nhất của giống đực, hay cái đuôi chưa đứt hẳn của con chó Mốc dính lủng lẳng mấy ngày làm tôi rợn da gà nhiều năm. Cho đến năm đầu tiên thấm thía mùa đông lạnh lẽo ở Mỹ, bà Corkey là người bảo trợ đến thăm thấy tôi cô đơn buồn bã mới có ý muốn tìm cho tôi một món quà Giáng Sinh đặc biệt. Nhìn Dawn bằng đôi mắt trìu mến, tôi nói lí nhí muốn có một người bạn gái; nhưng bà cố tình nghe nhầm, mua tặng tôi một con chó Labrador lông vàng óng như tóc của Dawn, con gái cưng bà. 
Tôi muốn đặt tên con chó của tôi là Dawn, nhưng lại sợ mẹ của Dawn buồn, tôi bèn gọi nó là Jingle Bells (một ca khúc Giáng Sinh). Tôi thương con Jingle Bells của tôi lắm. Ban đêm khi tôi đi làm thì Jingle Bells ngồi đợi khóc trong cửa. Gần sáng tôi về ôm lau nước mắt, đánh răng, rồi bồng Jingle Bells lên giường ngủ. Dạo ấy, tôi còn ở chung với hai người bạn Việt. Họ rất khó chịu cái kiểu nuôi chó Mỹ của tôi, nên rất ác cảm với Jingle Bells. Một ngày kia Jingle Bells bị đau; bà Corkey đem nó đi bác sĩ. Lúc nào tôi gọi thăm, Dawn đều bảo Jingle Bells chưa được khỏe. Cuối cùng hai mẹ con bà đến xin lỗi vì biết tôi không thể nuôi được Jingle Bells nên đã tìm cho nó một người chủ mới. Nghe qua tôi vùng oà khóc bỏ chạy lên lầu làm một bài thơ thả xuống. Tôi giận bà Corkey thì ít, mà hờn cô con gái của bà nói dối tôi nhiều lắm. Tôi thề không bao giờ nuôi chó nữa! Bẵng đi một năm, trong lúc nghỉ tay đánh bóng chuyền do các bạn trẻ nhà thờ tổ chức, tôi lấy sáo tre thổi vài bài giúp vui. Bỗng một con chó to lông vàng óng ở đâu vùng chạy đến nhảy chồm lên người. Jingle Bells đã nhận ra chủ cũ. Cả hai mừng ôm nhau khóc! 
Sau nầy đã lập gia đình và nhà có vườn rộng rãi ở tiểu bang Virginia, tôi vẫn giữ lời thề không nuôi chó; vả lại nhà hàng xóm đã có con Fritz mỗi chiều ngồi chờ bên rào để được bồng qua cho ăn ngon và đùa giỡn với các con tôi, hay mỗi khi ông Bill và bà Ruth hàng xóm đi hè, Fritz rất sung sướng được ở bên nầy và được dẫn đi chơi suốt ngày. Tôi thật sự không cần nuôi chó nữa. 
Nhưng rồi cuộc đời lại đưa đẩy gia đình tôi trôi giạt đến Nouvelle Calédonie, một hòn đảo nhỏ đầy bóng dừa thơ mộng giữa biển nam Thái Bình Dương. Thấy tôi buồn, nhân có người muốn cho con thỏ, nàng xin đem về tặng tôi. Tôi đặt tên nó là Peter. Peter thường chận đường cắn chân tay hai đứa con tôi, và thích trốn ỉa trong nhà. Biết cả nhà thích nuôi chó hơn, nàng lại chọn một con chó đen mới sinh đem về thả cho Peter làm bạn. Tôi đặt tên nó là Uncle Sam gọi tắt là Sam (chú Sam là cách gọi đùa cợt đối với chính phủ Mỹ). Sam thuộc loại Lulu Calédonien nhỏ xíu nhưng rất thông minh. Peter tưởng Sam đồng loại nên thường đè Sam ra làm bậy. Sam đâu đã biết gì, thấy Peter đùa nhột nên càng khoái chí nằm cười, khiến ngày nào tôi cũng phải đem Sam kỳ cọ tắm rửa. Nếu xách roi đuổi, thì Peter vừa chạy vừa vãi phân ra làm Sam tưởng kẹo chạy theo lượm ăn. Cuối cùng chúng tôi phải đành đem Peter cho người khác! Vài tháng sau đưa Sam ra thăm nông trại, thấy Peter co ro nằm chuồng trên, bên dưới là một con thỏ cái to gấp năm lần Peter lúc nào cũng chờ cắn mổ anh chồng nhí Peter; chúng tôi đành gạt nước mắt chia tay và không bao giờ trở lại gặp Peter nữa! 
Sam là con chó rất đặc biệt của tôi. Nó hiểu biết rất nhiều từ tiếng Anh, tiếng Việt. Sam lại biết cạy cửa buồng ngủ đánh thức mẹ dậy mỗi sáng và biết ngồi đợi mỗi chiều ba đi làm về mừng. Chúng tôi cưng Sam như một đứa con. Những lần viết thư về thăm nhà, tôi thường kể nhiều chuyện về Sam, làm cả nhà tưởng chúng tôi có thêm em bé. Ngoại trừ những lần đi du lịch nước ngoài, đành phải gửi Sam ở nhà Ngoại để bạn Sam là Simber đùa giỡn cắn kéo đuôi; còn đi đâu quanh quẩn trong hòn đảo nhỏ thơ mộng nầy chúng tôi đều mang Sam theo. Có lần thả mẹ con nàng ở hồ tắm, lúc mở cửa xe, Sam tự nhảy ra chơi ngoài bãi cỏ; chừng về gần đến nhà, thấy Sam không ngồi ở ghế trước như thường lệ, tôi hết hồn vội vàng vòng xe trở lại hồ tắm thì thấy Sam đang ngồi chờ ở ngay chỗ cũ! 
Sam đang ăn mà nghe tôi bảo: “Sam, đi bộ một tí tí?” Sam chạy đi bộ liền. Tôi bảo cắn, thì Sam cắn. Bảo sủa, thì Sam sủa. Bồng hát những câu ca dao vớ vẩn thì Sam ngủ ngay. Sam rất ghét mèo và nhất là ghét người đen bản xứ mặc dù Sam là con chó đen như mực! Trừ một năm hai bận, Sam lên cơn ngớ ngẩn thẫn thờ của kẻ thất tình ra ngồi sau hè mơ gái bỏ ăn ba bốn ngày, Sam thật sự là một đứa con ngoan của chúng tôi. Tôi tự nhủ một ngày kia, nếu bỏ Nouvelle Calédonie về lại Mỹ, tôi phải mang Sam theo. Đó là điều bận tâm của tôi. Nhưng định mệnh tàn nhẫn, Sam bị xe tông chết đã xóa bỏ mối bận tâm của tôi; nhưng làm tôi buồn bã suốt đời! 
Một buổi chiều cuối năm, tiếng pháo nổ đâu đó làm một con chó Berger Belge sợ hãi chạy lạc đến trước nhà. Thấy chó mất chủ, đói khát tội nghiệp, nàng ném cho cục xương. Sam bực mình sủa đuổi đi, nhưng con Berger nhìn tôi bằng đôi mắt van lơn, và hình như trong thâm tâm nó đã quyết định tự chọn một người chủ mới rồi! Ba ngày sau, tôi đặt cho nó một cái tên mới, SCOOBY DOO, gọi tắt là Cú Bi. Cú Bi rất bằng lòng với vườn mới, chủ mới, và anh chị mới cho dù thằng em Sam nhất định chận cắn không cho bước chân vào nhà một thời gian dài! 
Nếu con người sang trọng do ở sự ăn xài, thì từ ngày Cú Bi đến ở, quả thật chúng tôi đã trở nên sang trọng. Vì Sam nhỏ con ăn uống như mèo quào; nhưng Cú Bi mỗi ngày phải xực một lon thức ăn to từ hai đô la trở lên! Vậy mà bạn bè đến chơi, cứ xuýt xoa khen tặng: 
Mèo đến nhà thì khó 
Chó đến nhà thì sang

Cú Bi đến ở ít lâu bèn ra sức đuổi cắn hết các con chó đực khác ra khỏi xóm. Tuy không to khoẻ lắm, nhưng Cú Bi có đủ ba đức tính tán gái là: 
Liều mạng, đa tình, và lịch sự
Cú Bi được các em gái trong xóm khoái nhất! Đến mùa yêu, nó bỏ ăn, rán sức phi thân qua hàng rào nhà bạn gái nằm úm em cùng thích thú ngắm mưa rơi và nhìn lũ chó đực gầm gừ tức tối sủa ầm ĩ! Cú Bi chỉ khoái nằm ôm em hun hít và liếm láp tí đỉnh thôi, còn đứng dậy tính chuyện kiểu nầy kiểu kia chỉ làm em nhột chạy đi chỗ khác để Cú Bi nhịp khum lưng đánh vãi vào không khí một mình! 
Vì không làm ăn gì được với các cô bạn nhỏ xíu, Cú Bi bỏ nhà đi lang thang khắp các khu phố ở thủ đô Nouméa tìm bạn xứng đôi vừa lứa để biết bao cô bạn nhỏ hàng xóm đau khổ khóc thầm! Mỗi lần đi Cú Bi như một chiến sĩ ra trận, lúc trở về bị thương tích đầy mình; còn nếu không thấy mặt Cú Bi chừng vài ba ngày, thì chúng tôi phải lo ra Fourrière đóng phạt năm mươi đô la để đón về. Bực quá, tôi đem Cú Bi thả vào vườn nhà em nàng giao cho việc làm chó giữ nhà; nhưng chỉ được một buổi, Cú Bi đã trổ tài phi thân vọt rào trở về nhà bố mẹ! 
Từ ngày Sam mất đi, Cú Bi trở thành đứa con trọn vẹn của tôi. Cú Bi ăn cơm và đồ chiên xào, không thích thực phẩm đóng hộp; có khi bị bố ép buộc khăn cổ đút ăn đồ hộp như con nít! Mỗi sáng đúng năm giờ, Cú Bi đánh thức bố dậy cùng đi bộ một vòng lớn quanh xóm; rồi chịu buộc dây suốt ngày quanh quẩn trong vườn. Chiều bố đi làm về thả ra, Cú Bi liền chạy vào nhà nằm trông tiệm sách. Khách đến Cú Bi ra tận cổng đón chào. Đặc biệt dù đang ngủ trong nhà hay phơi nắng ở tận sau vườn, chỉ nghe tiếng guốc quen thuộc của cô đầm rất trẻ đẹp đi ngang qua nhà, Cú Bi vội vàng chạy ra hôn tay rồi đi theo cô đầm đến tận sở làm. Phần thưởng cô đầm tặng cho chàng là một bát nước lã; uống xong chàng vệ sĩ đa tình lại lủi thủi về nhà nằm chờ buổi chiều tan sở cô đầm trở về ngang qua nhà, chàng vệ sĩ đa tình lại chạy ra hôn tay và đưa về tận nhà! 
Tôi đã đắp mộ Sam dưới gốc dừa sau nhà và khóc nhiều ngày. Trong vài tháng nữa tôi lại giã từ Tân Đảo về Mỹ. Nàng và các con còn ở thêm một thời gian, nhưng sau đó Cú Bi sẽ lại mất chủ! Chó mất chủ như người mất mẹ! Tôi không dám nghĩ tới ngày buồn đó! 
Hôm cầm tấm vé máy bay biết ngày đi gần kề, bỗng thấy Cú Bi đi hoang như thường lệ trở về. Lần nầy không có thương tích gì cả, nhưng toàn thân Cú Bi rực một mầu vàng như nghệ! 
Buổi chiều đến nhà thương thăm. Vừa thấy tôi, Cú Bi khóc rống lên đòi về. Tôi ôm Cú Bi vào lòng an ủi, “Bác sĩ bảo con phải ở lại vài ba ngày uống thuốc cho khỏe hẳn, rồi bố sẽ đến đón con về nhé!” 
Đêm hôm sau, trong lúc gia đình cậu mợ Trường đãi tôi bữa cơm chia tay, có điện thoại gọi báo tin Cú Bi đã mất! Tôi bàng hoàng buông rơi đũa ăn, nghẹn ngào nước mắt! 
Tôi đã đi nhiều nơi, và tôi đã gặp nhiều người; càng gặp nhiều người, tôi càng yêu những con chó của tôi hơn! 
(Kỷ niệm 10 năm ở Tân Đảo Nouvelle Calédonie)

Nhạc sĩ Trịnh Hưng

Nhạc sĩ Trịnh-Hưng
Thái-Vinh mến tặng các bạn hát nhạc trong chương trình nhạc chủ đề Trăng Soi Duyên Lành
(Đăng trong nguyệt san Bút Tre số tháng Tư, năm 2007)

Một hôm tôi đưa anh Cả và anh Hai vào một quán ăn ở Milpitas. Thấy cặp trung niên ở bàn bên cạnh cứ lén nghe chúng tôi nói chuyện văn nghệ, tôi ngó qua gật đầu chào. Người phụ nữ ấy lấy hết can đảm bước sang, ngập ngừng:
– Xin lỗi, anh là nghệ sĩ Thành-Được?
Sẵn máu tếu trong người, tôi đáp bừa:
– Sao chị lại nhận ra tôi?
– Tôi thấy hình anh trong tờ quảng cáo “Nghệ sĩ Thành-Được 50 năm giã từ sân khấu”.
– Ồ!
– Trông anh trẻ chừng 50 tuổi mà làm gì đã vội giã từ sân khấu?
– Chị xem hai ông anh của tôi đây. Anh Cả 83 và anh Hai 76 tuổi, cả hai đã giã từ sân khấu từ hơn ba chục năm rồi!
– Nhưng mấy ổng có nổi danh như anh không?
– Sao lại không! Thế chị không nhận ra anh Lao Mộng Bể đây à?
– Dạ không!
– Thế chị có biết bài hát nầy không?
Cung đàn nào thương bằng tiếng ve sầu
Buồn nào hơn khi lứa đôi lìa nhau
Hè ơi mỗi năm ghi thêm lần nhớ
Có ai lỡ duyên ban đầu
Thông cảm được nỗi niềm đau…

– Đó là bài “Mùa Ve Sầu” của Lê Mộng Bảo mà!
– Thì Lao Mộng Bể là Lê Mộng Bảo đó. Tác giả nhạc phẩm “Phận Nghèo” trên Thúy-Nga By Night 52:
Nếu biết bây giờ phận tôi nghèo
Hỏi rằng người ấy có còn yêu
Có còn hẹn áo trắng vu quy
Có còn vui nhắc câu thề
Còn thắm thiết hay biệt ly?

– Thế còn ông kia?
– Anh Hai đây là nhạc sĩ Trịnh-Hưng.
– Trịnh-Hưng là ai?
– Thế chị không biết bài hát nầy à?
Về thôn xưa ta hát khúc hoan ca
Ngọt hương lúa tình quê thêm đậm đà…
Chị vui vẻ hát theo:
Dào dạt bao niềm thương trong mái lá
Bờ dâu xanh cô gái hát êm êm
Tầm mai chín gửi anh thăm mẹ hiền
Lòng già thêm hơi ấm khi chiều lên…

Hát xong, người ấy nói:
– Ba anh cứ tự nhiên ăn uống. Tôi xin được trả tiền ăn các anh hôm nay.
Anh Cả và anh Hai quên ăn, cứ ngẩn ngơ ngó người phụ nữ đó vội vã bước đi; còn tôi khoái chí vì nhờ nói chuyện văn nghệ với hai anh mà có người đã nhận lầm mình là nghệ sĩ Thành Được nổi danh!
Ngày còn nhỏ, tôi đã mê tính nghệ sĩ của anh Sáu giặt ủi bên cạnh nhà. Anh Sáu có bộ mặt không mấy đẹp trai, vì mụn cơm mụn nếp mọc bừa bãi đầy mặt. Tuy thế, nhờ tài đàn địch, nên anh có lắm cô trong xóm để bụng thương thầm. Vào những đêm trăng sáng, anh thường ôm đàn ngồi trước sân hát những bài rất tình tứ, như “Em Tôi” của Lê Trạch-Lựu hay “Cô Láng Giềng” của Hoàng-Quý khiến tôi nghe riết cũng thuộc lòng. Một hôm tôi lén ôm đàn Ghi-ta của anh, hát “Cô Láng Giềng ơi…” bị anh Sáu bắt gặp, anh cười bảo:
– Mày chưa trổ mã, giọng chưa bể, hát mấy bài nầy chưa được!
Rồi anh lôi ra cây đàn Măng-đô-lin và bản nhạc “Tôi Yêu” của Trịnh-Hưng bắt đầu dạy tôi học. Đó là giai đoạn thanh bình của miền Nam từ năm 1954-1960. Tôi bắt đầu vò vẽ học đàn với mục đích chờ ngày trổ mã, có giọng ấm, và hát được những bài hát lãng mạn cho thật nhuyễn như anh Sáu để tán gái!
Anh Sáu là thầy dạy đàn; nhưng lời và nhạc của nhạc sĩ Trịnh-Hưng mới thật sự là người thầy đã mở cửa tâm hồn ngây thơ của tôi về mối tình yêu đầu đời là tình yêu quê hương. Dầu sau nầy lớn lên, quê hương đã chìm vào khói lửa chiến tranh, tôi không còn thấy nhạc của Trịnh-Hưng xuất hiện nữa; nhưng vào những buổi văn nghệ Tết, hay đêm liên hoan, lửa trại…tôi vẫn thường cầm đàn hay vỗ tay hát lại những bài hát đậm tình yêu quê hương của nhạc sĩ Trịnh-Hưng, như “Tôi Yêu” với những câu:
Tôi yêu quê tôi, yêu lũy tre dài đẹp xinh
Yêu con sông xanh dâng cát hoe vàng bến đình
Yêu trăng buông lơi hôn má cô nàng đẹp xinh
Và yêu những thảm đồng xanh, đẹp tươi trong buổi bình minh…

thì tôi tưởng không còn câu hát nào hay và rung động hơn những lời nầy nữa!
Trong những ngày lưu lạc bên Âu-châu vào đầu năm 1992, tình cờ đọc một tờ báo liên lạc của Hội Công Giáo Việt-Nam tại Lyon, tôi mừng rỡ khi biết ông đang ở cùng một thành phố. Lúc tìm gặp ông ở trong một chung cư dành cho người nghèo, tôi vô cùng ngạc nhiên: “Trịnh-Hưng đấy ư?”
Đó là một ông già, ốm yếu, nhỏ người, đang cầm bình nước sôi pha trà. Thấy tôi ngập ngừng muốn thụt lui, ông đưa tay vẫy:
– Vào đây! Anh em, chứ không chú bác gì cả!
Kể từ đó, anh với tôi luôn luôn đi chung với nhau. Khi thì ngồi quán ở La Pardieu, khi leo xe buýt sang tận Bellecour dưới bầu trời gió lạnh tìm gặp em gái của ca sĩ Tâm-Đoan, những lần gây quỹ cho chùa Thiện-Minh, nhà Công Giáo Việt-Nam, và những đêm văn nghệ cháo gà ở nhà bác sĩ kiêm thi sĩ Phạm Thị Nga với linh mục kiêm nhạc sĩ Trần Ngọc-Hải, tác giả những bài hát nổi danh vào năm 1960 như “Những Buổi Chiều Xưa” và “Đàn Lòng Xa Cách”. Anh đã thay đổi rất nhiều vì mấy năm sống lẻ loi một mình. Bây giờ có bạn, anh lại vui vẻ, thích kể chuyện tếu. Cứ vài ba ngày, anh lại đưa tặng tôi một bài thơ, hay một bài hát. Anh là người biết nhiều vì bước chân anh đã từng đi ngang dọc hết ba miền của đất nước. Tuy không ở trong giới văn nghệ, nhưng nghe anh kể, tôi cũng biết đại khái sống đời nghệ sĩ rất buồn rầu.Từ dạo năm 1960, anh không còn sáng tác nữa, nhưng vẫn dạy nhạc và dạy hát, hay viết nhạc bán lại cho các nhạc sĩ khác để kiếm sống. Học trò học nhạc của anh có Phạm Thế Mỹ, tác giả các ca khúc nổi tiếng như “Đường Về Hai Thôn”, “Những Ngày Xưa Thân Ái”, hay “Trăng Tàn Trên Hè Phố”; và Đỗ Lễ với nhạc phẩm bất hủ “Sang Ngang”. Về hát có ca sĩ Ánh-Tuyết, Thanh-Thuý…
Nhưng rồi những ngày vui có tôi ở bên anh cũng qua đi. Tôi lại trôi dạt về một hòn đảo xa xăm, New Caledonia, nằm tận ở biển Nam Thái Bình-Dương. Anh và tôi chỉ còn gặp nhau qua những cánh thư. Sau gần mười năm ở Tân Đảo, tôi lại lò dò trở về Hoa-Kỳ báo tin cho anh biết và mong có ngày gặp lại anh bên nầy. Tôi chỉ nói thế để tạo cho anh có niềm vui sống thôi; chứ làm gì anh có khả năng mò sang tận bên nầy gặp nhau. Nhất là bây giờ đôi chân gầy yếu của anh lại phải kèm theo một cái chân thứ ba bằng gỗ! Thế mà, đùng một cái, anh gọi điện thoại báo tin sẽ đến phi trường San Francisco! Tôi trách anh sao dám đi ngang xương như thế, nhưng cũng thầm phục một tâm hồn mạnh mẽ trong thân xác rất yếu đuối của anh. Nghe anh nói câu nầy, thì tôi không còn biết trách anh thế nào được nữa:
– Cậu có biết một bài thơ của Nguyễn Thị Vinh mà tôi phổ nhạc có câu nầy không?
Ngày còn nhỏ thích xa nhà
Đi đâu cũng được miễn là được đi
Lang thang mây chẳng định kỳ
Có chân không bước ích gì chân ơi!

Bây giờ nhạc sĩ Trịnh-Hưng đang ở cùng một thành phố với tôi như hồi mười hai năm về trước. Liên tiếp mấy hôm họp bạn, chúng tôi lại hát những bài hát xưa của anh, tự dưng ai nấy cũng cảm thấy quê hương thật gần; nhưng tôi dám chắc rằng bây giờ ngay cả ở chính ngay trên mảnh đất thân yêu quê hương làm gì còn có cảnh đẹp như nhạc sĩ Trịnh-Hưng đã từng xuất thần vẽ ra một cảnh đẹp như tranh trong bài “Lúa Mùa Duyên Thắm” thế nầy nữa:
Chiều dần rơi sau mái đồi ánh trăng buông lả lơi
Nhịp chày vơi như tiếng ca thiết tha xây cuộc đời
Làng thôn em mừng hát vui vì lúa lên màu tươi
Hạt lúa thơm vì thấm bao mồ hôi
Và sớm hôm ra sức ta cày xới…

Hay “Trăng Soi Duyên Lành” với cảnh sông nước nên thơ:
Em là cô gái Đồng-Nai
Duyên về cho thắm lòng ai?
Mai mùa tươi tốt lên thành hai
Về thăm người em gái ngắm trăng soi dòng sông dài…

Có bạn chỉ mới nghe bài hát, nhưng chưa biết nhạc sĩ Trịnh-Hưng đã hỏi tôi:
– Ông ấy người miền Nam, phải không anh?
– Không, ông là nhạc sĩ gốc Bắc di cư từ năm 1954.
Trừ những bài hát đầu tay đã tuyệt bản như “Nhớ Về Hà Nội”, hay “Mùa Hoa Sim Nở” ngay cả chính ông cũng không còn nhớ. Chỉ có nhạc phẩm “Tôi Yêu” với “Yêu con đê xưa đưa lối qua chợ làng quê” là còn mang hình ảnh làng quê đất Bắc; các nhạc phẩm nổi danh sau nầy đều là cảnh đẹp miền Nam, như:
“Lối Về Xóm Nhỏ”, “Lúa Mùa Duyên Thắm”, “Trăng Soi Duyên Lành”, “Tình Thắm Duyên Quê”, “Miền Nam Mưa Nắng Hai Mùa”, “Tiếng Ca Dân Lành”, và “Lúa Về Đêm Trăng”.
Tái định cư ở Pháp từ năm 1990, ông cũng không thể nào quên được mối tình đầu là tình yêu quê hương, nên ông lại tìm và phổ nhạc các bài thơ hay, như “Đất Đẹp Miền Nam” thơ của Hoàng Trùng-Dương:
Miền Nam rợp bóng dừa xanh
Sông ngòi uốn khúc chảy quanh xóm làng
Miền Nam có Cửu Long Giang
Sông Tiền Sông Hậu nhuốm vàng phù sa
Ươm cho cây lúa mượt mà
Vườn cam vườn mận nở hoa trĩu cành…

Như “Nhớ Quê” thơ của Nguyễn Văn Cường:
Ra đi nhớ lắm mái chùa
Nhớ dòng sông, nhớ hàng dừa ven mương
Nhớ chiều nắng tắt trên mương
Nhớ khuya sương đẫm mùi hương lúa vàng…

Hay tuy là nhớ Mẹ, nhưng cũng tràn đầy hình ảnh nhớ quê-hương trong bài hát “Mẹ Là” phổ thơ của Lê Trọng-Nghĩa:
Mẹ là tất cả ý thơ
Mẹ là muôn triệu giấc mơ êm đềm
Mẹ là liều thuốc thần tiên
Mẹ là giọng nói dịu hiền thiết tha
Mẹ là biển rộng bao la
Mẹ là gió mát
Mẹ là trăng thanh
Mẹ là trái ngọt cây lành
Mẹ là trái chín trên cành đợi con…

Lời thơ thật thà đầy ắp hình ảnh thân quen; dòng nhạc lại vui tươi nên các nhạc phẩm của Trịnh-Hưng rất dễ nhớ và dễ hát. Anh xứng đáng là vua của loại nhạc Mambo Bolero rất hiếm hoi trong rừng âm nhạc Viêt-Nam.
Từ khi lưu vong sống cô đơn nơi xứ người, lời nhạc của anh phản ảnh tâm sự buồn bã của đời anh như trong bài hát “Tìm Quên”:
Thôi tình lỡ rồi
Mà hình bóng người còn như ôm mãi trong lòng tôi
Duyên tình lỡ làng
Đành nhờ tiếng đàn tìm trong quên lãng theo thời gian
Đàn tôi đã đứt dây tơ rồi
Mình tôi cam sống trong lẻ loi
Ai làm cho đôi lứa đôi nơi
Cho lòng ta đau xót khôn nguôi
Mong thời gian xóa đi hận đời…

Hay trong nhạc phẩm “Chỉ Yêu Cuộc Tình” phổ thơ của Đỗ Bình:
Thuở yêu em mộng mị
Ta ướp sợi tóc dài
Vào trang thơ nhật ký
Đêm về mơ bóng ai
Gió khuya người có lạnh
Sao hồn ta chơi vơi
Hay em là hư ảnh
Tội bài thơ không lời?

Đây là hai nhạc phẩm, một theo điệu Tango rất lôi cuốn và một theo điệu Boston buồn bã, mà tôi cho là hai tuyệt phẩm ở hải ngoại của anh. Tiếc thay, chưa được các ca sĩ nổi tiếng biết đến!
Ngoài ra, trong tập nhạc “Những Tình Khúc Dân Ca Quê Hương Vượt Thời Gian” của Trịnh-Hưng, còn có ba bài hát ca ngợi tình yêu đối với Thiên-Chúa. Tôi nghĩ chính bản thân anh đã chịu đựng quá nhiều đau khổ khi con trai bị công an tra tấn chết, anh làm nhạc phản động chống Cộng Sản, rồi bị tù đày liên tiếp tám năm; nên một người ngoại đạo như anh phải tìm nguồn an ủi nơi đấng thiêng liêng là một điều dĩ nhiên.
Trịnh-Hưng lại còn là một thi sĩ với những vần thơ ray rứt tân kỳ ít người biết đến. Sở dĩ anh có được sổ chiếu khán đi Mỹ cũng là do anh có nhiều thơ văn đăng trong hội thơ tài tử ở Hoa-Kỳ. Lần đầu tiên anh đưa tôi xem bài thơ “Xin Cảm Ơn Em Người Vợ Hiền”. Mới đọc vài câu, tôi đã thấy xúc động quá:
Xin cảm ơn em, cảm ơn đời
Cảm ơn người vợ của tôi ơi
Em là tiên nữ trời sai xuống
Trả nợ cho anh trả nợ đời
Từ dạo ấy
Em trở về vùng biển mặn
Vung đôi tay níu chặt cuộc sống còn
Anh đi trả nợ nước non
Em về lặn lội nuôi con thế chồng
Chừ đây!
Tóc em không còn đen như dạo nào bên thôn Vĩ
Mắt em không còn xanh như dòng Hương Giang thuở nọ
Nhưng lòng em đẹp lắm
Đẹp như bóng trăng rằm
Tươi như hoa thắm
Mát dịu như gió đầu thu
Là muôn ngàn tinh tú
Lấp lánh trên trời cao
Là Tiên Đào
của hai chàng Nguyễn Lưu thuở trước
Là Ô Thước
nhịp cầu tình của Chức Nữ Ngưu Lang
Bá Nha có một tiếng đàn
Trương Lương tiếng sáo, còn nàng là thơ
Nàng là thơ mà ta đang hát
Nàng là nhạc mà ta đang ca
Thời gian lặng lẽ trôi qua
Lưng còng một gánh tuổi già theo sau
Thấy người, mình luống thương đau
Nhìn mình, mình thấy thân sầu héo khô
Em ơi, vạn nẻo sông hồ
Mười ba năm biệt bây giờ là đây
Tiếc thương một tấm thân gầy
Kiếm buông hoen rỉ ra ta vuốt hờn
Gió từng cơn, gió từng cơn
Lá rừng, rừng lá hoàng hôn gợi sầu
Xa vời thế sự bể dâu
Tháng năm điểm bạc mái đầu phù cương

Và đây là bài thơ “Một Mình” rất độc đáo. Hy vọng anh Trịnh-Hưng nhờ qua mấy vần thơ nầy sẽ tìm được vài tâm hồn đồng điệu an ủi:
Một mình uống, một mình ăn
Một mình một chiếu, một chăn một giường
Một mình nhớ, một mình thương
Một mình thao thức đêm trường năm canh
Một mình tỉa lá uốn cành
Một mình mình viết, một mình mình xem
Một mình ngồi dưới ánh đèn
Viết đi sửa lại để xem một mình
Một mình ôn chuyện tâm tình
Một mình ca khúc, một mình mình nghe
Một mình oi bức trưa hè
Một mình nghe rõ tiếng ve kêu sầu
Một mình nhìn trước ngó sau
Một mình vô thức giữa lầu lặng yên
Một mình “Thiền” để dễ quên
Một mình quán tưởng sáng lên diệu kỳ
Một mình lắm lúc ngồi ì
Hai mình có phải diệu kỳ hơn không?

Ngày 30 tháng 4

Ngày 30 tháng 4 

Thái-Vinh 

30 tháng 4 năm nay đánh dấu ngày Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ đúng 43 năm. Ngày này đối với người Việt Nam tị nạn Cộng Sản trên khắp thế giới không bao giờ có tên gọi thống nhất, nào là: 
Ngày Mất Nước 
Ngày Quốc Hận 
Ngày Tưởng Niệm 30 Tháng 4 
Ngày Ba Mươi Thứ Tang 
Tháng 4 Đen 
Ngày Bắt Đầu Cuộc Hành Trình Tìm Tự Do 
Ngày Vượt Biên, Vượt Biển, Con Lai, Đoàn Tụ, HO… 
Nhưng ngày này, dù muốn dù không ở Việt Nam lại là ngày toàn quốc nghỉ lễ “Giải Phóng Miền Nam” hay “Thống Nhất Tổ Quốc”. 
Ngày 30 tháng 4 năm nay nhằm ngày thứ Hai; tôi đi làm, phải tiếp xúc với khách hàng, nhưng không giấu được nỗi buồn vì là ngày tôi đã leo lên thuyền Trường Xuân bỏ nước ra đi. Trong các tên gọi cho ngày 30 tháng 4 nói trên, đối với tôi có lẽ đúng là “Ngày Mất Nước” vì gần 4 ngàn người trên thuyền cũng như tôi đã biết khát vọng của con người bị mất nước trong 5 ngày trôi giạt giữa biển khơi! Thuyền chìm, nhưng may mắn được tàu buôn Clara Maersk của Đan Mạch cứu đưa vào Hồng Kông tị nạn chờ nước thứ ba ra tay nghĩa hiệp nhận đem về nuôi. Trong những ngày chờ đợi vô vị ở Hồng Kông, tôi thường leo lên mái tôn của trại tị nạn Hartcourt, ngồi trông áng mây bay về cố xứ và tự hỏi “Tại sao mình mất nước?” Không có câu trả lời! Tức giận, tôi chửi Cộng Sản, chửi Mỹ, chửi ông Thiệu chán, rồi quay lại tự chửi “Mình làm mất nước; chứ tại ai?” 
Đúng là cái gì mình có mà không giữ, đến khi mất lại hối tiếc và đổ hô tại không ai giúp mình? 
Đó là lý luận của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cáo buộc đồng minh Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà trong bài diễn văn từ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 1975. Ông Thiệu là người hiểu rõ hơn ai hết rằng người bạn đồng minh ấy đã muốn rút lui khỏi Miền Nam Việt Nam từ lâu; nhưng ông vẫn nhất định không tin Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà qua lời hứa riêng của Tổng Thống Nixon! 
Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 bởi 4 bên gồm Mỹ, Việt Nam Cộng Hoà, Cộng Sản Miền Bắc, và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là giấy khai tử Việt Nam Cộng Hoà vì những điều khoản quan trọng trong hiệp định ấy hoàn toàn do Cộng Sản Miền Bắc và Mỹ họp kín đồng ý để Mỹ rút lui trong danh dự và xoá sổ Việt Nam Cộng Hoà. 
Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết quân trong vòng 60 ngày, khoảng 150 ngàn quân Cộng Sản Bắc Việt được phép ở lại Miền Nam tại những vùng họ đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Mỹ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại Miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Mỹ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này! 
Tại sao Cộng Sản Miền Bắc là kẻ phát động cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam không rút quân về Bắc mà lại được phép ở lại những vùng họ đã chiếm đoạt để làm gì? 
Nixon là chính trị gia tồi! Trong cuộc tái tranh cử Tổng Thống Mỹ vào ngày 7 tháng 11 năm 1972, dù chưa chấm dứt chiến tranh Việt Nam, ông vẫn dễ dàng đánh bại đối thủ George McGovern; thế mà ông lại đồng loã trong vụ đặt máy nghe lén trong trụ sở Watergate của Đảng Dân Chủ! Nixon từ chức vào ngày 8 tháng 8 năm 1974. Cho dù không xảy ra vụ Watergate thì Tổng Thống Nixon cũng bó tay vì sau đó Quốc Hội Mỹ đã thông qua đạo luật “Foreign Assistance Act of 1974” loại bỏ viện trợ và tài trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa. 
Gerald Ford lên kế vị Tổng Thống không làm được gì để cứu vãn Việt Nam Cộng Hoà! Lần đầu tiên trong lịch sử, nước Mỹ đã thua trận vì sức chịu đựng của dân chúng Mỹ giới hạn, thêm vào đó giới truyền thông thiên tả gây ảnh hưởng xấu cho cuộc chiến bảo vệ tự do, và phong trào phản chiến phát động tại các trường đại học biểu tình liên miên chống chiến tranh Việt Nam. 
Miền Nam chống Cộng Sản nhờ vào viện trợ Mỹ, nên khi Quốc Hội Mỹ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975 thì khó khăn về kinh tế đã bắt đầu. Thêm vào đó, các phong trào phản chiến hay đối lập chính trị do Cộng Sản giật dây hoặc có cảm tình với Cộng Sản liên tục quấy phá mạnh mẽ gây xáo trộn xã hội từng ngày. Cho dù đã có gần một triệu đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp định Genève năm 1954 lánh nạn Cộng Sản, nhưng đa số quần chúng, ngay cả giới trí thức vẫn không thấu triệt chủ nghĩa Cộng Sản là gì nên dễ bị tuyên truyền lôi cuốn vào phong trào “Chống Mỹ, Ngụy cứu nước”! Miền Nam muốn chống Cộng, phải độc tài; nhưng Miền Nam đã phù phiếm hai chữ Tự Do! 
Trong khi đó, đối thủ là Cộng Sản Miền Bắc quyết tâm và chỉ có một quyết tâm là xâm chiếm Miền Nam dù phải hy sinh nhiều thế hệ! 
Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Hải quân Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hoà. Hạm đội 7 của Mỹ làm ngơ! 
Cộng Sản Miền Bắc thăm dò phản ứng của Mỹ với “Chiến dịch Đường 14” chiếm tỉnh Phước Long ngày 6 tháng 1 năm 1975. Mỹ theo dõi, nhưng không phản ứng! 
Được Mỹ làm lơ, Cộng Sản Miền Bắc sung sướng phát động Chiến dịch Tây Nguyên ngày 4 tháng 3 năm 1975 đánh Buôn Mê Thuột. Sau khi Buôn Mê Thuột thất thủ ngày 11 tháng 3 năm 1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nguyên là Trung Tướng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã quyết định liều lĩnh điên rồ ra lệnh cấp tốc triệt thoái Cao Nguyên về giữ đồng bằng vùng duyên hải. Cuộc rút lui hỗn loạn kinh hoàng trên tỉnh lộ 7B từ Pleiku về Tuy Hoà khiến quân đội hùng mạnh đứng hàng thứ tư trên thế giới không đánh mà tan rã và kéo theo các thất thủ dây chuyền nhanh chóng. Chỉ trong vòng 55 ngày từ khi Cộng Sản phát động Chiến dịch Tây Nguyên, toàn bộ nước Việt Nam Cộng Hoà bị sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975! 
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là vị tướng hèn nhát không dám chiến đấu hay tự sát mà từ chức rồi bỏ trốn, giao lại nhiệm vụ không còn gì để làm cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương ngoài việc bàn cãi với Quốc Hội làm thủ tục không “vi hiến” bàn giao chức Tổng Thống lúc 4 giờ 45 phút buổi chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975 cho Dương Văn Minh (một cựu tướng lãnh từng làm đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 và ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm) để đàm phán với Cộng Sản. Nhưng Tân Tổng Thống Dương Văn Minh có tài cán gì đâu ngoài tài hết làm tay sai cho Pháp, cho Mỹ, đến các thầy tu của khối Phật Giáo Án Quang đã tuyên bố đầu hàng Cộng Sản vô điều kiện vào lúc 11 giờ 30 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975! 
Chiến Tranh Việt Nam (1955-1975) do Miền Bắc khởi xướng với tham vọng chiếm trọn đất nước để cai trị theo chủ nghĩa Cộng Sản. Cộng Sản Miền Bắc đã đạt được giấc mộng ấy sau hai mươi năm lường gạt gây chiến tranh “Chống Mỹ Cứu Nước” không cần thiết, đã gieo tang tóc đau thương cho từng người, từng gia đình, và giết hại hàng triệu đồng bào! Cuộc chiến thắng vĩ đại của Cộng Sản Miền Bắc không phải “giải phóng Miền Nam” mà thật sự giải phóng người dân Miền Bắc để bắt kịp Miền Nam về mọi mặt! Phan Huy, một thi sĩ nổi tiếng ở Miền Bắc trong bài thơ “Cảm tạ Miền Nam” đã viết: 
Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói 
Với Miền Nam, miền đất nước điêu linh 
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình 
Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật 
Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất” 
Tôi đã vào một xứ sở thần tiên 
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền 
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc 
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục 
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em 
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền 
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống 
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động 
Đất nước, con người, dân chủ tự do 
Tôi đã khóc ròng, đứng giữa thủ đô 
Giận đảng, giận đoàn, bao năm phỉnh gạt 
Sinh ra, lớn lên, sau bức màn sắt 
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu” 
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều 
Con người nói năng như là chim vẹt 
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng 
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh 
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mác Lê nin 
Tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đường vô sản” 
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng 
Xã hội thụt lùi, người kéo thay trâu 
Cuộc sống xuống thang, tính bằng tem phiếu 
Thân phận con người chẳng khác bèo dâu 
Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối 
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh 
Biết được nhân quyền, tự do, dân chủ 
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình 
Cảm tạ Miền Nam soi đường chỉ lối 
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng 
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên 
Chớ không phải Các Mác và Lê Nin ngoại tộc 
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai phóng 
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu 
Mà trước đây tôi có biết gì đâu 
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ 
Cảm tạ Miền Nam một thời làm chiến sĩ 
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng 
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỉ 
Dù không thành công cũng đã thành nhân 
Làm thế nào để Miền Bắc bắt kịp Miền Nam? Đó là nhờ vào một chính sách chỉ có Cộng Sản với nghệ thuật cai trị tàn bạo mới đủ nhẫn tâm thực hiện: Phải làm cho Miền Nam kiệt quệ! 
Chế độ cải tạo bắt hàng trăm ngàn người Miền Nam cộng tác với chế độ Việt Nam Cộng Hoà là “những kẻ có nợ máu với nhân dân” học tập cải tạo và lao động với những điều kiện vô cùng khắc nghiệt lưu đày lâu dài trong trại tù bị đói khát và bệnh tật hành hạ để được hưởng chế độ khoan hồng “nhân đạo” của đảng và nhà nước! 
Người đi tù cải tạo biệt xứ; người ở lại bị kỳ thị ngược đãi xua đuổi đi vùng kinh tế mới, phải ăn độn bằng thực phẩm dành cho gia súc… Người dân Miền Nam nhanh chóng bị kiệt quệ từ tinh thần đến thể xác phải liều chết vượt biên, vượt biển ra đi. “Nếu được tự do, ngay cả cột đèn cũng bỏ nước ra đi!” 
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đối với người dân Miền Nam thật sự là Ngày Tủi Nhục! 
Đã 43 năm tổ quốc thống nhất mà người dân vẫn sống trong sợ hãi, và đang giãy chết vì bị đầu độc từ trên rừng dưới biển, từ thức ăn, nước uống, cho đến tư tưởng phải “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để “Đảng Cộng Sản Vinh Quang Muôn Năm”! Người Việt Nam thật sự yêu nước, có ai dám nghĩ tới điều “Vinh Quang Muôn Năm” đó? 
Tôi không ở lại để chứng kiến một điều thay đổi nào mà Cộng Sản đã thật sự đem lại hạnh phúc cho người dân Miền Nam. Tôi hỏi câu này trong một buổi họp mặt vui vẻ với các bạn đồng môn cùng trường trước ngày chưa “Mất Nước”. Mọi người suy nghĩ, nhưng vẫn không tìm được câu trả lời thoả đáng. Cuối cùng một người bực mình phát biểu: 
– Người đặt câu hỏi khó đó có câu trả lời không? 
Tôi nói ngay: 
– Sao lại không! Người dân Miền Nam đã có một giai đoạn cười sảng khoái ngay sau khi đất nước thống nhất. Đó là giai đoạn chỉ còn biết cười để bớt oán buồn! Văn chương bình dân như hát vè, ca dao, tục ngữ, nhạc chế, chuyện tiếu lâm… được phát triển tột bực. Thử nhắc lại vài câu: 

Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý 
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do 

XHCN là Xếp Hàng Cả Ngày 

Đôi dép râu làm rầu tuổi trẻ 
Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai 

Ở với Hồ Chí Minh 
Cây đinh phải đăng ký 
Trái bí cũng sắp hàng 
Khoai lang cần tem phiếu 
Thuốc điếu phải mua bông 
Lấy chồng nên cai đẻ 
Bán lẻ chạy công an 
Lang thang đi cải tạo 
Hết gạo ăn bo bo 
Học trò không có tập 
Độc Lập với Tự Do 
Nằm co mà Hạnh Phúc! 

Tôi đéo cần giải phóng quê tôi 
Tôi đéo muốn treo hình ông Hồ 
Tôi đéo thèm chủ nghĩa Mác Lê Nin 
Tôi chỉ muốn sống như thời ông Kỳ..

Việt Nam mùa bão


Việt Nam Mùa Bão
(Đăng trong nguyệt san Bút Tre tháng 12, 2017)
Thái-Vinh

Nghe tôi sắp đi về Việt Nam, em tôi lo ngại:
– Siêu bão con Voi (Damrey) mạnh cấp 12 sắp đổ bộ vào miền Trung đó anh!
Tôi trấn an:
– Mười năm trước anh chị và phái đoàn Úc đã chạy xe điên cuồng trong mưa bão từ Hà Nội vào Hội An lội nước lụt thăm Phố Cổ vui lắm. Lần nầy các nhà lãnh đạo kinh tế APEC mà còn dám mạo hiểm họp thượng đỉnh tại Đà Nẵng từ ngày 6 đến ngày 11 tháng 11 thì thường dân như bọn anh thấy chẳng có gì đáng sợ cả! Mấy tuần trước, con gái của anh chị đã thay ba mẹ về Đà Lạt giúp ông ngoại chữa bệnh; nay chị vừa sống sót qua trận chiến ung thư, phải cấp tốc về thăm bố.
Đã lâu lắm nàng tránh về thành phố mang tên “Bác” vì oi bức, quá đông người và xe cộ; nhưng từ tháng 11 trở đi thời tiết ở cố đô đã mát mẻ dễ chịu như Arizona. Chúng tôi đáp chuyến bay KE683 của hãng Korea đến phi trường Tân Sơn Nhất khoảng 10 giờ tối. Thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam đã cải cách ngang tầm các nước trong khu vực, khá nhanh chóng. Theo báo “Hải quan online” khoe trên 93% hàng hoá vào Việt Nam miễn kiểm tra. Nếu nhân viên kiểm soát di trú không hỏi vớ vẩn như “Chú về nước đi chơi đâu, hay chơi bao lâu…” thì tôi đã chấm điểm thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam ngày nay còn “trên cả tuyệt vời”!
Việc đầu tiên trước khi bước ra khỏi phi cảng là đổi tiền và mua thẻ điện thoại (Sim Card) gắn vào điện thoại di động của bạn để gọi xe và liên lạc với người thân ở Việt Nam. Cô nhân viên bán Sim Card của Mobifone rất duyên dáng và tử tế.
Việt Nam bây giờ đã có dịch vụ gọi xe Uber rất tiện lợi; đặc biệt cho người nước ngoài tránh bị tài xế taxi và xe ôm chở chạy lòng vòng chém chặt. Chỉ cần gắn ứng dụng gọi xe Uber vào điện thoại thông minh (smart phone), bạn dễ dàng gọi xe đón và theo dõi vị trí chiếc xe của mình. Khi đến nơi, chỉ bước ra xe. Mọi thủ tục thanh toán qua ứng dụng gọi xe Uber chỉ cần một cái nhấn trên điện thoại rất nhanh chóng. Hiện tại các nghiệp đoàn taxi ở Việt Nam cảm thấy bị thua thiệt, đang quyết liệt tranh đấu đòi chính quyền dẹp bỏ sự cạnh tranh “bất chính” của Uber. Hùm… tôi nghĩ bất kỳ sự cạnh tranh đứng đắn nào mà có lợi cho người tiêu dùng nên khuyến khích; và tôi đã chọn khi nghỉ hưu sẽ trở thành tài xế lái Uber ở Gilbert và Chandler rồi đó!
Sài Gòn có hai bến xe lớn nhất nước là Bến Xe Miền Tây ở quận Bình Tây và Bến Xe Miền Đông ở quận Bình Thạnh. Trong tương lai, Bến Xe Miền Đông sẽ dời ra quận 9 Sài Gòn và thị xã Dĩ An của tỉnh Bình Dương để tránh kẹt xe trong nội thành Sài Gòn. Theo Website https://futabus.vn của hãng xe khách Phương Trang thì bến xe nằm tại 328A đường Lê Hồng Phong; nhưng khi xuống Uber mới biết đó chỉ là văn phòng bán vé. Sau khi mua vé đi Đà Lạt, hãng vé lập tức chuyển chúng tôi lên xe nhỏ chạy ngay ra Bến Xe Miền Tây bắt kịp chuyến xe nửa đêm.
Hãng xe khách Phương Trang khoe “Chất lượng là danh dự” với xe thuộc loại giường nằm nổi bật và hiện đại. Lên xe cũng như bước vào một ngôi nhà của người Việt Nam theo truyền thống cổ lỗ sĩ là phải tháo giày cho vào túi nhựa, cầm đi rón rén kẻo va đầu vào giường sắt! Đây là lần du lịch thứ ba của chúng tôi bằng xe giường.
Lần thứ nhất từ thủ đô Vientiane nước Lào của nàng đi Paksé, thủ phủ của tỉnh Champasack vào đầu năm 2010 nằm giường cho hai người ở tầng dưới. Đi loại xe giường trên xứ Lào rất phiêu lưu vì có thể bị nằm chung giường với một người khác phái mà mình không thích!
Lần thứ hai trong chuyến “Du lịch bụi” nước Chí Lợi (Chile) năm 2016 trên chuyến Tur Bus hai tầng với 25 ghế Salon Cama như khách sạn đưa phái đoàn chúng tôi từ Valparaiso đi Puerto Varas. Trên quãng đường xa 1200 cây số (746 dặm) bị bắt nằm ngủ liên tục 14 tiếng đồng hồ kẹt cứng bên trong một anh bản địa to lớn nên giấc ngủ của tôi đầy mộng dữ chiến đấu không ngừng với bọn thảo khấu chỉ chực chôm chỉa!
Lần thứ ba nầy nằm xe giường sắt nhỏ xíu như cỡi xe Bobsled của môn thể thao trượt tuyết mùa đông. Người Việt Nam nhỏ con nằm sao cũng vừa; nhưng cô gái Âu Châu bên cạnh mặc quần đùi đang trầy trật nhét cặp chân dài trắng trẻo vào giường bỗng ngó qua tôi cười. Xe chạy giồng xóc một lúc chỉ còn thấy một đống mền. Quãng đường Sài Gòn – Đà Lạt dài 300 km; ban đêm vắng vẻ không bị trục trặc dọc đường, ngoại trừ dừng nghỉ một lần ở Di Linh, chỉ mất khoảng 6 tiếng là đến bến xe Đà Lạt. Thành phố thân yêu buổi sáng sớm đón chúng tôi bằng cơn mưa đầu ngọn bão con Voi đang đập vào Nha Trang. Mặc trời mưa, hàng quán từ chợ mới Mỹ Thành bày bán tràn lan ra hai bên đường Hoàng Diệu rất vui. Chúng tôi về lại trước cổng sắt biệt thự mang tên bức hoạ Mona Lisa nổi danh của Leonardo da Vinci xây trên lưng đồi năm 1908 được xem là một trong 1500 biệt thự cổ mang kiến trúc miền bắc của nước Pháp đang được bảo tồn để gợi nhớ hình ảnh Âu Châu vào đầu thế kỷ 20 trên đô thị Đà Lạt.
Đã 7 năm trôi qua tôi mới trở lại biệt thự Mona Lisa. Trước thềm, một đoá hoa hồng khoe sắc thắm như vui mừng chào đón người về. Ngôi nhà vắng vẻ rộng mênh mông bấy lâu chỉ thấp thoáng bóng dáng ông bà cụ bỗng tràn đầy tiếng cười ấm nhà. Đi ngang qua hành lang, với tay sờ trái khế duy nhất trên cành khẽ run trong gió, tôi bồi hồi nghĩ tới ngày sắp về hưu. Mảnh vườn sau là giang sơn riêng của bà cụ với bơ, me, vú sữa… sum xuê như một đám rừng nhỏ. Ông cụ còn yếu lắm, nhưng thích ăn ngon, dặn bà cụ đi chợ mua thịt gà về chính tay ông làm đãi thằng cháu ngoại. Trước kia, thấy tôi chỉ biết ăn xôi vỉa hè; lần nào tôi về, ông cụ cũng rủ tôi cùng đạp xe ra tận quán Bánh Cuốn Thanh Trì trên đường 3 tháng 2 mua quà sáng cho cả nhà. Tất cả các quán ngon bây giờ đều gần nhà; ngon nhất và rẻ nhất là quán cóc Xíu Mại Chấm trước nhà. Buổi sáng, anh trai bán xíu mại chấm với bánh mì; buổi chiều em gái bán bánh bèo ăn với giò lụa. Chỉ 20 ngàn đồng (gần bằng 1 đô la) mỗi suất thay cơm là đủ vui trong lòng suốt một ngày! Mẹ con nàng rủ tôi đi bộ ra bờ hồ Xuân Hương mua hàng ở Big C. Đây là một khu shopping kỳ quặc che mất vẻ đẹp của hồ Xuân Hương là trái tim đập nhịp muôn đời của Đà Lạt. Mẹ con nàng chơi quấn quýt bên ông bà cụ; còn tôi, mỗi khi trời tạnh mưa, xách máy đi săn ảnh. Đà Lạt bây giờ quá đông người và xe cộ. Suối Cam Ly từ hồ Xuân Hương đến thác Cam Ly đã được nạo vét tạm bớt mùi tanh tưởi nồng nặc; nhưng Đà Lạt cũng giống như bất kỳ nơi nào ở Việt Nam đều không bao giờ thiếu rác! Nếu có ai hỏi tôi nghĩ gì về Việt Nam bây giờ, thì tôi đã có câu trả lời ngay: Việt Nam là xứ tự do nhất… Tự do xả rác ra đường!
Đêm tái ngộ với các em họ của nàng ở Đà Lạt, nàng đã hát “Giấc Mơ Hồi Hương” của Vũ Thành với tiếng đàn piano của chủ quán Nghệ Sĩ cũng là đêm cuối cùng của tôi ở Đà Lạt; ngày mai tôi sẽ đi trong mưa bão. Lần nầy cũng bằng xe thuộc loại giường nằm nổi bật và hiện đại của hãng Phương Trang, tôi đi về Quy Nhơn thăm mẹ. Bão con Voi đang tàn phá nhiều nơi ở miền Trung nên không còn ai quan tâm tới Hội nghị Kinh tế APEC ở Đà Nẵng. Các cháu gọi điện thoại, khuyên:
– Cậu nên đổi ngày đi!
Tôi hỏi:
– Họ đã mở đập xả lũ chưa?
– Chưa, cậu à.
– Vậy cậu phải đi; chứ chờ họ xả lũ chỉ có chết chùm!
Ngay mấy phút trước giờ xe đến đón, tôi còn điện thoại hỏi hãng xe Phương Trang và được trấn an chuyến xe Đà Lạt – Đà Nẵng vẫn khởi hành đúng giờ.
Xe chạy đường Miền Trung vẫn loại giường nằm, nhưng nệm giường bung xục xịch, xuống cấp rõ rệt. Có lẽ dân Miền Trung nghèo, chỉ cần có chỗ ngồi được đi về tới nhà bình an là mừng rồi nên không cần những sáo ngữ khoe khoang “chất lượng” và “danh dự” chăng?
Khoảng 2 giờ chiều xe lăn bánh theo đường đèo Khánh Vĩnh đi Nha Trang rồi theo Quốc lộ 1 ra Quy Nhơn. Nếu không bị trục trặc dọc đường dài 400 km thì sẽ đến Quy Nhơn khoảng 10 giờ đêm. Xe có 2 tài xế và 1 nhân viên tiếp khách; tất cả đều là nam nhân. Quy luật ở trong xe không được hút thuốc, không được ăn các món nặng mùi như sầu riêng, bánh mì thịt, không được xức dầu xanh… Tiếp viên vừa nói xong, chợt có tiếng phản đối:
– Đã có người xức dầu xanh kìa!
Có tiếng từ giường trên ngập ngừng đáp lại:
– Tui… tui chỉ bôi dầu cù là thôi mà!
Xe chạy trong mưa bão độ chừng 15 phút, bỗng nghe tài xế phụ nói chuyện lớn tiếng với ai đó trong điện thoại, rồi quay lại giải thích:
– Đường đèo Khánh Vĩnh đã bị sạt lở. Chúng ta phải đổi hướng đi đường đèo sông Pha (hay còn gọi là đèo Ngoạn Mục) xuống Phan Rang.
Ngoại trừ tôi, còn các hành khách trong xe dường như đã biết trước nên chẳng ai quan tâm, miễn là được về tới nhà bình an!
Tôi cần gửi tin nhắn báo cho cháu biết sẽ về tới nhà tầm khoảng 12 giờ khuya.
– Bác tài cho em xin mật khẩu Wifi?
Tài xế chỉ máy phát Wifi treo trên vách xe đang chớp đèn đỏ:
– Máy hư!
Nước từ bên hông núi chảy tràn qua đèo, rồi rơi ầm ầm xuống vực thẳm như thác đổ. Nhiều đoạn đường đèo hẹp bị xói lở, hai xe tránh nhau rất ghê rợn. Mỗi khi có dịp đi lại đường đèo Ngoạn Mục (tôi thích tên gọi nầy hơn) vì nó gợi lại kỷ niệm ngoạn mục năm nào bị cô gái ngồi băng ghế phía trước ói văng vào cổ áo trong truyện “Huy Hiệu Công Nghệ”, rồi quen nhau…
Xe đến Quốc lộ 1 thì mưa bão bỗng trở nên dịu dàng; Wifi hoạt động trở lại. Lúc chạy ngang Cam Ranh thì hành khách bắt đầu thức dậy, kêu đói. Xe dừng lại trước một quán ăn nhơ nhớp ngổn ngang bàn ghế; thức ăn chỉ còn phở và cơm trứng tráng cháy đen. Nhìn nồi nước phở nổi bọt như nước rửa bát, tôi ngao ngán thở dài ngủ với bụng trống cho đến khi tài xế phụ đánh thức, thả tôi xuống Diêu Trì.
Từ ngày em tôi trở lại Mỹ giúp con mới sinh cháu gái, mẹ tôi phải rời ngôi nhà thân yêu của bà để sang tá túc nhà cháu ngoại. Cháu Tuyến chở tôi về ngôi nhà cũ, nay chỉ dùng làm nhà để ô tô của cháu. Tôi khoá của sắt, lên lầu thắp nén hương cho ấm nhà, rồi mở cửa ra hiên lầu ngắm nhà cô láng giềng và dãy nhà buồn hiu của phố chợ. Từ ngày 25 tháng 11 năm 2016, ngôi chợ cũ gần một thế kỷ đã bị phá bỏ và thay thế bằng ngôi chợ mới cách đó khoảng 200 mét thì con đường Nguyễn Văn Trỗi từ chợ cũ chạy ngang trước nhà đi lên ga Diêu Trì như bị tê liệt chẳng còn sức sống! Hai cô giáo độc thân xinh đẹp đang mơ mộng gì trong hai ngôi nhà bên kia đường lúc nào cũng buồn, bây giờ có lẽ càng buồn hơn? Tôi chập chờn theo mộng mị trong ngôi nhà hoang vắng cho đến khi loa phóng thanh trên ga xe lửa oang oang phát bản tin chẳng ai thèm nghe đánh thức dậy lúc 5 giờ sáng!
Cháu Tuyến đến chở cậu đi ăn bánh hỏi với cháo lòng nổi tiếng của quán Hồng Linh, rồi về thăm mẹ. Mẹ tôi năm nay 96 tuổi và đã bắt đầu lãng trí từ 4 năm nay sau khi bị hai cô gái đẹp âm mưu lừa đảo bỏ thuốc độc vào cốc nước trà. Tháng 3 năm 2016 tôi về thăm mẹ; lúc đó nhờ có hai khuôn mặt thân ái lúc nào cũng quấn quýt bên cạnh là em gái tôi và chị Bảy giúp việc, mẹ tôi còn cười nói khi tôi trìu mến hỏi:
– Mẹ biết con về không?
– Sao lại không?
– Con là ai?
Bà ngẫm nghĩ mãi, rồi cười khúc khích.
Nhưng em tôi đã đi và chị Bảy cũng đã nghỉ việc. Tuy có chị Lợi rất hiền lành giúp đỡ, và đặc biệt có cô cháu dâu Tuyết-Mai hết lòng thương yêu chăm sóc bà, nhưng mẹ tôi đã đến giai đoạn mà anh tôi gọi là đã “giác ngộ”! Nếu “giác ngộ” là không còn biết nói cười và không còn biết gì chung quanh nữa thì “giác ngộ” là đã chết? Suốt ngày, mẹ tôi ngồi trước máy truyền hình cho đến khi ngủ gục trên xe lăn thì được bế lên giường nằm. Tôi xoa bóp chân tay mẹ và nói những lời yêu thương… nhưng mẹ tôi chỉ nghe mà không biểu lộ một cảm xúc gì cho đến hôm tôi ra đi, hôn mẹ và nói lời chia ly thì trong đôi mắt mẹ chợt ướt!
Bốn ngày ở quê, mưa bão liên miên. Nước sông Hà Thanh dâng cao chờ tràn qua cầu Diêu Trì; nhưng mọi sinh hoạt vẫn bình thường vì mọi người đều biết chắc chắn rằng một khi các hồ thủy điện mở đập xả lũ “đúng quy trình” thì nhiều việc bế tắc khó khăn đến đâu, ngay cả rác cũng sẽ được giải quyết nhanh chóng! Tôi đã đi xe taxi ăn giỗ với các bà chị, đã cỡi xe đạp đi trong mưa và tự đón xe buýt thành phố đi thăm bạn; nhưng chính nhờ cháu Tuyến khi thì dùng xe ô tô, khi thì dùng xe mô tô chở tôi đi bất kể mưa gió bão bùng và lụt lội, tôi đã được gặp lại nhiều khuôn mặt thân thương tưởng đã “giác ngộ” từ lâu, như mợ Sáu sắp mừng tuổi đại thọ, còn minh mẫn, nhưng đã bớt than đau bệnh và không cần tiền nữa! Đặc biệt dì Nhâm là người tình cũ của ba tôi. Dì đã qua tuổi đại thọ, nhưng vẫn còn mở quán nho nhỏ bán bánh kẹo, nước ngọt, trà thuốc lai rai mà lại còn bán chịu cho khách hàng nợ, không cần ghi sổ sách; thật đáng nể trí nhớ của Dì! Cháu Tuyến bước vào quán, nói oang oang:
– Con là Vinh nè!
Dì ngước nhìn mặt Tuyến, rồi ngó ra cửa thấy tôi, mừng rỡ kêu:
– Vinh kia kìa!
Tôi chạy lại, trìu mến cầm tay, hỏi:
– Dì thấy con giống Ba không?
– Giống lắm!
– Dì có nhớ người yêu của Dì không?
– Có chớ sao không?
Sáng sớm ngày thứ Năm, gia đình cháu Tuyến bùi ngùi tiễn tôi tại phi trường Phù Cát. Trên máy bay nhìn xuống, miền Trung đang chìm dần trong biển nước lũ!

Lòng Tự Trọng Của Con Gà Mái

Lão Ma Thiện-Trường

Một hôm A-Phi nhìn thẳng vào mặt ba nó, ngập ngừng một hồi khá lâu, rồi đưa tay chỉ lên tờ Thời Báo có đăng tấm hình ngày anh Tiểu Diệp của nó được cấp bằng võ sư tứ đẳng huyền đai lúc tròn 16 tuổi, và vô cùng thắc mắc:
– Ba ơi, sao Diệp còn nhỏ mà được lên trang bìa báo vậy ba?
Lão Ma nghiêm túc trả lời:
– Anh Diệp tập võ từ năm 12 tuổi; mỗi ngày tập 2 tiếng từ thứ Hai đến thứ Năm không ngừng nghỉ bữa nào. Cuối tuần có khi nó nhốt mình trong nhà xe 8 tiếng đấm bao cát cho tới mu hai bàn tay rướm máu bị má con chửi có thằng cha điên dạy con đam mê võ nghệ thì anh con quay sang tập Thái cực quyền cho má con vui; nhưng nó vẫn lén luyện đủ võ thuật các phái. Được lên báo là nhờ khổ luyện. Làm việc gì cũng phải cố gắng như anh Diệp thì con sẽ được đăng lên báo thôi!
A-Phi nghe xong im lặng không nói gì.
Lão Ma bây giờ mới hiểu ở Mỹ người ta chỉ tôn trọng người đàng hoàng được lên báo hay ti-vi với câu nói: “If you are not on TV, you are nobody.”
Lão Ma đã xoá hết hình gà mái vì nó không còn trên cõi đời này nữa!
“Nghĩa tử là nghĩa tận”, nhưng Lão Ma cứ thấy ray rứt chuyện con gà mái dầu của A-Phi không biết nó đi về đâu để tìm riêng cho mình một cách chết vô cùng đẹp. Đây cũng là một tiêu án mà vợ Lão Ma gây gỗ vào cái hôm chị gà mái dầu bỏ chuồng ra đi lặng lẽ.
Sau một ngày ác chiến với diều hâu, chị gà mái dầu mình mẩy đầy thương tích; lỗ đít rụng sạch lông trắng hếu phơi hĩm tênh hếch, trong khi anh gà trống vẫn oai phong lẫm liệt trong bộ áo công tử sặc sỡ với mồng gà đỏ thắm. Thấy nó tình nghĩa lăng xăng quấn quít bên đít chị gà mái dầu như muốn chăm sóc cũng tội; nhưng chị gà mái dầu tủi thân cứ dụi lỗ đít quay đi hướng khác. Khi Lão Ma đi cày về, người đầu tiên báo cáo là Diệp:
– Ba ơi, con gà mái chắc bị diều hâu quay lại ăn thịt nó rồi?
A-Phi liền bay vô cãi:
– Không phải đâu ba! Diều hâu thua, cũng bị thương nặng, cố sức bay trốn. Gà mái bỏ nhà đi tìm chỗ để chết đó! Con không nghe tiếng đánh nhau rầm rầm như hôm qua. Con tìm theo vết lông rụng, nó bỏ đi qua hướng nhà cô Oanh và ông Rudy rồi mất tiêu dấu lông!
Lão Ma ôm A-Phi vào lòng xoa đầu an ủi:
– Ba cũng nghĩ giống như con. Mình mẩy nó đầy thương tích chắc biết mình không thể sống được nữa, mà lại ở bên anh gà trống bô trai lăng xăng chăm sóc, cứ săm soi chỗ lỗ đít rụng sạch lông trắng hếu thì còn gì xấu hổ hơn? Nó bỏ đi là đúng rồi. Ba nghĩ đây là lòng tự trọng cuối cùng của chị gà mái dầu đầy cá tính. Thôi con đừng tìm nữa, cũng đừng buồn nghen con! Mình phải tôn trọng sự lựa chọn theo lối tự xử của một con hùng kê đầy khí phách đủ tư cách làm một con gà đàng hoàng cho chủ nhân và bạn đời kính trọng sự ra đi của nó!
Anh Diệp của A-Phi cười tủm tỉm khi nghe ba nó giải thích hộ con gà.
Buổi tối Hoa Đàm đi làm về nghe A-Phi học lại nguyên văn:
– Lòng tự trọng cuối cùng của con gà đã bỏ nhà đi tìm chỗ để chết, má mua con gà mái khác cho con nghe má?
Hoa Đàm nhàu nhò, “Tụi bay nghe ông già điên nói chuyện”, rồi bả phì ra cười; vừa cười vừa lẩm bẩm, “Lòng tự trọng cuối cùng của con gà… Hùm… Chỉ có đồ điên mới nghĩ cao siêu như vậy?”
Lão Ma giải thích:
– Bà không đọc sách nên không biết gì hết! Vào thời đại Thích Ca, bên Tàu có ông Lão Đam nhỏ hơn ông Phật vài tuổi cũng đã bắt chước con gà cỡi trâu đi vào sa mạc. Lòng tự trọng của Lão Tử mấy ngàn năm trước cũng học từ gà ra mà thôi…
Hoa Đàm giận dỗi ngoay ngoảy bỏ vô buồng:
– Tại không đọc sách nên mới làm vợ ông nè!

Thú cưng của em

Nguyễn A-Phi (9 tuổi, lớp 4)

Từ khi anh Hai Diệp đi học ở UC Berkely và anh Ba Huy đóng cửa phòng ráo riết luyện thi chuẩn bị vào đại học thì trong nhà không còn ai chơi với em nữa. Sợ em buồn, sanh bệnh trầm cảm, Ba mua cho em hai con gà. Ít lâu sau, trong vườn nhà em có một đàn gà con. Ba nói đùa với mẹ, “Mai mốt bà làm thịt con gà trống giỗ ông Nội thằng A-Phi”.
Một hôm đang chơi với các con thú cưng, em chạy vào nhà, thở hổn hển gọi điện thoại khẩn cấp làm ba em phát sốt:
– Ba ơi , con diều hâu từ trên trời cao lao xuống quắp con gà con bay lên rớt xuống; còn đang đánh nhau với gà mẹ ngoài vườn…
– Sao con không kêu mẹ ra cứu nó?
Mẹ em giật lấy điện thoại, run run nói:
– Tụi nó làm rầm rầm như xe hơi tông lộn. Con gà trống thua, bỏ chạy, la thét như bị cắt cổ làm tôi rợn da gà. Vừa mở cửa, nó bay vô nhà, bay lên bàn thờ ba, rồi bay luôn lên chỗ thờ ông Phật, ngồi trên đó run lập cập, mặt tái mét! Tôi bắc thang bế xuống; hai cẳng nó run rẩy, tim đập thình thịch, trông rất tội nghiệp!
Ba em hỏi:
– Còn con gà mái đâu?
– Nó đánh thắng con diều hâu; miệng nó ngậm đầy lông chim. Tôi đẩy cửa sau ra, thấy con diều hâu lảo đảo bay lên. Cánh nó dang ra cả thước; trong tích tắc bay biến mất. Tôi còn run, nói chi con gà trống?
Em xen vào:
– Con gà mái nhà mình thua, sao mẹ lại nói thắng? Lông đít nó rụng sạch hết kìa!
Mẹ ngoay ngoắt:
– Thôi, tôi đi làm. Chiều ông về nhớ bôi thuốc cho nó?
Chiều ba đi làm về, mưa to quá; ba chỉ nhốt đàn gà vào chuồng. Ba kể chuyện đầu năm gà mái đại chiến với diều hâu cho bác Ba ở Arizona nghe. Bác thích quá, đề nghị, “Vợ chồng chú đừng giết gà nhà làm đám giỗ ông Nội. Gà mẹ liều chết bảo vệ đàn con thật là tấm gương sáng cho các cháu suốt đời nhớ mẹ. Còn gà trống, tuy thua bỏ chạy, nhưng biết kêu cứu; đừng để đàn gà con mất bố!”

Một Mối Tình

Một Mối Tình
Tác giả: Võ Nguyễn Như Quỳnh

Ngày ấy, tôi vào đại học với đôi bím tóc thắt nơ màu xanh nước biển, anh nói, với đôi bím tóc bự tổ bố này anh có thể nhận ra em ngay từ đàng xa. Ngôi trường tôi học vốn là một tu viện cũ, bên trái là biển Bắc Mỹ An xanh ngăn ngắt, bên phải là con đường nhỏ ngoằn ngoèo lên Ngũ Hành Sơn. Ngày ấy, tôi cùng vài đứa bạn đuổi nhau chạy dọc theo hành lang cư xá cười hét ầm ĩ, và rồi im bặt lấm lét nhìn nhau khi thấy các anh trong đội bảo vệ ký túc xá trừng mắt nhìn dù họ chỉ là sinh viên năm thứ tư. Ngày ấy, tôi gặp anh, người con trai với cặp mắt hơi buồn nhưng lại có cái miệng cười vô cùng quyến rũ và tài ăn nói thu phục lòng người. Ðiều đó là phước hay là họa cho tôi? Ngày ấy ai mà cần biết chỉ biết rằng anh đối với tôi là tất cả.

Ðêm trăng, chúng tôi thả bộ ra biển chơi, từ cư xá anh ra đến biển phải đi qua một ruộng lúa, qua một bãi tha ma, qua một đồng khoai lang, qua một bãi phơi lưới dân chài. Tôi đi sát bên anh, muốn đoạn dường này dài vô tận và tưởng như thế gian này không có hạnh phúc nào hơn. “Sợ ma không?” anh hỏi. “Không” tôi đáp một cách tin tưởng. Anh không biết rằng tôi vốn là một đứa sợ ma nhất trên thế gian này nhưng đi bên cạnh anh tôi bỗng trở nên can đảm lạ lùng. Anh kể một câu chuyện tiếu lâm về ma nào đó và tôi cười khanh khách, tôi ngày ấy là thế, thần thánh hóa mọi điều về anh.

Thỉnh thoảng anh đến thăm tôi vào tối chủ nhật, không hẹn hò bao giờ nhưng ngày nào tôi cũng chờ anh. Ðêm, nghe tiếng gõ cửa, tôi lập tức nhảy xuống giường chạy ra mở cửa và không ít lần đã mừng hụt. Chúng tôi đi chơi, thường thì đi uống cà phê, ăn chè. Khi không có tiền thì đi ra biển chơi, đốt đuốc bằng vỏ lốp xe đạp cũ để bắt còng hay đi bộ dọc theo con đường Ngô Quyền cho đến lúc mỏi chân thì trở về cư xá. Có một quán cà phê tôi thích nằm trong con hẻm nhỏ thơm mùi hoa mận. Lần cuối cùng gặp anh trong quán cà phê ấy tôi hỏi: “Mình đến đây bao nhiêu lần anh nhỉ?” “Năm lần” anh đáp. Tôi nhẩm đếm, quả đúng là năm lần.

Trở về, tôi mở nhật ký ra ghi, nhật ký của tôi ngày ấy không có một điều gì khác, không có một tên người nào khác, ngày nào anh đến, tôi viết vào nhật ký những trang dài, ngày nào không có anh cuốn sổ tội tình không được tôi đụng tới. Sau này, mỗi lần vô tình lật lại cuốn nhật ký cũ tôi vẫn thầm kêu lên “Mình và anh đã gặp nhau ít đến như vậy sao?”

Chia tay nhau về quê nghỉ hè kết thúc năm học thứ nhất, đến năm thứ hai anh không đến nữa. Bạn bè xầm xì tại anh bị nợ quá nhiều môn học nên phải lưu ban cho đến năm sau. Tôi buồn và lặng câm không nói với ai một lời về anh nhưng lúc nào cũng tự hỏi mình tại sao anh không nói với tôi một lời mà lại biến mất như vậy? Học lực của tôi sa sút đáng kể và cuốn nhật ký không được tôi đụng tới hầu như đã mốc meo. Ðêm đêm tim tôi vẫn đập thình thịch khi nghe tiếng cửa gõ. Năm học thứ hai, bạn bè ai cũng cặp kè gần hết, còn tôi mỗi ngày vẫn viết những bài thơ khó hiểu trong những mảnh giấy bé bằng bàn tay và âm thầm hy vọng anh trở lại.

Và rồi, anh trở lại, với cái đầu trọc lóc được che đậy bằng cái mũ tai bèo màu trắng, tôi vui mừng và đã không bao giờ hỏi tại sao? Sau đó là những ngày tháng tuyệt vời hạnh phúc, là Non Nước, Suối Ðá, Nam Ô, Hội An, Tam Kỳ những nơi mà chúng tôi đã đi qua, những trận cười chúng tôi để lại. Ðêm, anh chở tôi đi quanh thành phố Ðà Nẵng lộng lẫy ánh đèn ngũ sắc. “Trăng sáng quá Q. ơi” anh khẽ nói như vậy. Tôi lắc đầu “Em không thích, trăng đêm nay quá hoàn hảo, những thứ hoàn hảo quá sẽ không thuộc về em.” Anh cười “Em đa cảm quá mức cần thiết cho cuộc sống rồi đó Q. ạ”. Tôi trầm ngâm…

Cuối năm học thứ hai, tôi phải lên đường đi Mỹ theo diện HO. Anh nói “Anh yêu em…” lần thứ nhất và cũng là lần sau cùng anh đã nói lên cái điều mà tôi khắc khoải chờ đợi bấy lâu. Anh nói tiếp “Nhưng nửa vòng trái đất xa quá, anh không hứa hẹn vì không tin ở sự vững bền…” Mắt anh hoe đỏ, lần thứ nhất tôi thấy anh buồn. Tôi khóc một ngày, một đêm, đi lang thang mấy buổi chiều giữa trời mưa tầm tã và giết chết rất nhiều bướm đem ép khô để có thể chấp nhận được lời anh nói.

Tôi bỏ tất cả những thứ có liên quan đến anh trong một cái rương nhỏ và giấu trên căn gác nhà bà nội. Dăm tấm hình chụp chung, vài cái vỏ diêm, một bao thuốc lá rỗng anh đã hút, mấy con tem cũ, những sách vở tôi cho anh mượn học thi trả nợ được anh trả lại, vô số bài thơ viết trong những mảnh giấy bé như bàn tay và cuốn nhật ký mỏng dính. Như vậy tôi tự hứa với mình sẽ quên anh và coi tất cả những gì đã có giữa anh và tôi là một kỷ niệm đẹp, quá đẹp vốn không bao giờ thuộc về tôi.

Những năm tháng tha hương qua nhanh trên miến sa mạc Arizona nóng hổi. Tôi có bạn trai sau khi đã chán vì hàng trăm lá thư gởi đi không được hồi âm và cũng nản lòng vì những bài thơ tôi viết gởi cho Áo Trắng không được đăng tải (vì tôi hy vọng anh sẽ đọc được những bài thơ tôi viết). Thạch, người con trai có nước da đen như than và bàn tay ấm lạ lùng lúc nào cũng cười hề hề khi tôi nhắc đến tên anh. Thạch bảo “Chuyện ở Việt Nam thì ăn nhằm gì, anh cũng có vậy”. Và anh đòi tôi hôn.

Trở về sau những cuộc hẹn hò với Thạch, lòng tôi buồn khôn tả, và tôi lại nghĩ đến anh, lại giá như thế này, giá như thế nọ, không phải là tôi đem tình yêu ra mà so sánh, nhưng tôi quả thật không tìm được ở Thạch những cảm giác mà ngày xưa với anh tôi đã có. Tôi chia tay với Thạch không lâu sau đó, có người chê tôi tánh gàn dở, tôi không bận tâm gì mấy và tự nhũ, miễn tôi sống hạnh phúc vui vẻ không làm hại ai cũng đã tốt rồi. Nhưng thật ra tôi có thực sự vui vẻ và hạnh phúc không? Nhiều lần tôi tự hỏi mình như vậy và không dám trả lời một cách thật lòng. Tôi mỗi ngày vẫn gọi thầm tên anh như một thói quen không thể bỏ. (Ngày xưa lũ bạn của tôi thách tôi nếu một ngày không nhắc đến tên anh thì sẽ bao tôi đi ăn chè nhưng chẳng bao giờ tôi làm được).

Tôi trở lại tìm kiếm anh trong một ngày mùa hè, miền Trung nắng như thiêu, cảnh vật đã đổi thay nhiều sau mười năm xa cách nhưng tôi cũng có thể tìm lại được căn nhà anh ngày xưa nằm trong con hẻm nhỏ ở thị xã Tam Kỳ. Anh đã không còn ở đó, đứa cháu gái anh đưa cho tôi một cái địa chỉ ở Bình Dương, tôi cảm ơn nó rồi vội vã ra đi.

Sau mấy ngày đi xe tàu, vất vả tìm kiếm, tôi cũng đến đươc cái địa chỉ mà cháu gái anh đã ghi vội vàng trên tờ lịch mỏng. Một căn nhà xinh xắn có cổng sơn xanh nước biển, có lối vào rải sỏi trắng dưới tàn cây mận xum xê. Tôi đứng ngập ngừng không biết có nên bấm chuông hay không thì hai con chó thật lớn đã nhảy ra sủa ầm ĩ. Một người đàn bà xinh xắn bước ra theo sau là hai đứa bé trai khoảng ba bốn tuổi. Cô kiếm ai? Người đàn bà cất lên giọng Huế ngọt ngào, tôi lúng túng hỏi tên anh và giải thích tôi là một người bạn học cũ của anh từ Ðà Nẵng vào.

Vợ anh, phải người ấy là vợ anh cho biết anh đã ra ngoài khoảng một tiếng sau mới về, và mời tôi vào nhà chơi. Tôi vội vàng từ chối và nói là tôi có chuyện phải đi gấp, rồi lật đật đi xa khỏi căn nhà có cánh cổng sơn xanh và thơm mùi hoa mận ấy. Tôi trở ra Ðà Nẵng và ở lại đó vài ngày, buổi chiều đi dọc trên bờ biển Bắc Mỹ An đưa mắt vô hồn dõi theo những con dã tràng chạy trên cát trắng và hát thầm bài “Nha Trang ngày về”.

Tôi trở lại Mỹ, từ biệt Ðà Nẵng, từ biệt cô bé có đôi bím tóc si tình, trước mắt tôi còn quá nhiều việc phải làm, trước tiên là phải tìm lấy cho mình một người tình.

Biển Động
Có những ngày …còn nhớ không anh ?
Đêm rất lạnh trong căn phòng nội trú
Cánh cữa sổ đập rầm rầm giận dữ
Gió rít lên quyết đấu với mùa đông
Biển bây giờ không phẳng lặng đâu anh
Mà biển động thét gào lên bão tố
Như trong em sóng lòng đang cuồng nộ
Như đêm nào nghe tiếng biển thét gào
Ta đã đi , và như thế xa nhau
Như tiếng biển vẫn còn vang vọng mãi
Và bất chợt sóng lòng như biển ấy
Khắc khoải về , giấc ngủ chẳng bình yên…
Biển lòng em không bao giờ dịu êm
Mà lòng biển dâng trào lên ngọn sóng
Ta và người hai dòng trôi cuộc sống
Bao nhiêu lần nhìn lại biển sau lưng ?
Biển vẫn còn như thế thủy chung
Kiên nhẫn vỗ ngàn năm lên bờ cát
Giấu nỗi đau , chôn sâu niềm khao khát
Đợi mình về bước chậm như ngày xưa…
Em sẽ về thăm biển trong mơ
Nơi có anh và nụ cười rạng rỡ
Câu diễu cợt , trận cười như sóng vỗ
Đổi bao nhiêu năm để lấy lại một ngày?
Kỷ niệm còn thấp thoáng men say
Em uống biển chưa bao giờ hết khát
Như yêu anh chưa bao giờ là đủ
Sóng gầm lên biển động ở trong lòng
Trải hồn ra với biển mênh mông
Để câu viết mặn nồng hơn ngày ấy
Xa nhau rồi nhưng lòng còn giữ lại
Chút tình người , biển mặn , khát trong em
8. 2015
Nqnv

My Mother

mymother_at_hospital-13

Mẹ tôi
Thái-Vinh

Tôi là người sung sướng nhất đời.
Tôi vẫn còn Mẹ.
Mẹ tôi được các con gọi bằng Má.
Ngày còn nhỏ, tôi không biết Má tôi tên thật là gì? 
Hàng xóm gọi Má tôi theo tên anh tôi là Bà Phùng.
Một hôm tôi đem cơm trưa vào lớp học cho anh Phùng, bị Thầy Mười bắt được. Thầy Mười trợn một con mắt duy nhất bên trái đỏ như máu ngó xéo qua bên mặt, làm tôi điếng hồn:
– Mầy con ai?
Tôi ấp úng:
– Dạ con của Má.
– Má mầy tên gì?
Tôi lúng túng:
– Dạ, Má con tên Bà Phùng.
– Vậy hả? Mầy phải gọi tao bằng Cậu!
Tuy Thầy Mười làm tôi sợ đái són ra trong quần, nhưng tôi cũng cảm thấy hãnh diện ngầm vì có người cậu một con mắt ghê gớm, từng đánh học trò bằng xương sống cá Đuối!
Gọi Má tôi là Bà Phùng là gọi sau lưng; chứ trước mặt, thì ai cũng kêu Má tôi là Chị Bốn. Ba tôi là con áp út trong gia đình, đứng hàng thứ mười một; đáng lẽ người ta phải gọi Má tôi theo Ba tôi là Chị Dư mới đúng phong tục. Việc nầy cho thấy thế lực rất đáng nể của Má tôi trong xóm.
Bẳng đi một dạo, xóm chúng tôi lại có xuất hiện gia đình thằng Phùng Dẹo tản cư từ La Hai ra. Thấy chúng tôi chơi thân nhau, để tránh lẫn lộn, từ đấy mọi người bèn gọi Má tôi là “Bà Phùng Xắt Thuốc”, mặc dầu Má tôi làm nghề buôn bán thuốc điếu từ hồi Ngô Tổng Thống.
Hồi ấy nhà tôi còn nghèo lắm. Cơm ăn chỉ toàn mắm ruốc nấu canh với lá Giang. Hai anh em tôi không có quần mặc đi học đàng hoàng; đôi lúc phải mặc đại áo cũ của Ba tôi, dài rộng thùng thình vào lớp học, ngồi bị gió luồn vào lạnh rốn. Lúc ấy, lương thư ký xã của Ba tôi chưa đủ mua thuốc cho ổng hút; không biết ai đã bày Má tôi nhảy vào cái nghề đốt buồng phổi ác ôn nầy! Má tôi không tốt nghiệp từ một trường quản trị kinh doanh nào, nhưng dám xử dụng gần hai chục nhân công phụ trách tướt, tẩm, cuốn, xắt, sao, sấy, quấn, gói…làm việc rộn ràng vui vẻ suốt ngày đêm không ngừng nghỉ. Ai đi ngang qua nhà tôi cũng nghe thấy tiếng cười và mùi thuốc thơm bay ra ngào ngạt…
Trong đám nhân công làm cho Má tôi chỉ có một người nam làm công việc cuốn xắt nặng nhọc, còn lại toàn là các cô thiếu nữ hiền lành trong xóm. Má tôi đặc biệt thương mến những cô nhân công ngang tầm tuổi tôi. Bà đã hứa hẹn cô nầy cô kia…dùng tôi làm phần thưởng kích thích năng lực sản xuất của các nàng. Nhưng mỗi năm tôi mỗi lớn và càng ít về nhà. Mỗi khi về, lại thấy toàn các cô nữ sinh duyên dáng xinh đẹp kéo đến thăm làm buồn lòng tâm hồn mơ mộng của các cô làm công cho Má tôi.
Má tôi là một người có tham vọng chính trị. Má tôi muốn ai cũng kính nể, nên thường cho khách hàng nghèo cần thuốc hút hơn cần ăn cơm mua chịu. Bà con túng thiếu cần mượn tiền mua phân bón, mua máy cày, máy bơm nước…đều đến Má tôi vay nợ. Sổ sách buôn bán đều nằm gọn hết trong bộ nhớ tuyệt vời cất trong đầu của Má tôi rất kỳ diệu. Thấy chức vụ thư ký xã của Ba tôi chỉ làm công việc đánh máy tầm thường, Má tôi muốn Ba tôi phải làm ông Xã Trưởng, tức Đại Diện Xã dù biết trước làm cái chức vụ lớn nhất xã đó thì Ba tôi không còn là người đàn ông riêng của Má tôi nữa.
Quả nhiên sau gần mười năm làm chức vụ dân cử đứng đắn nhất của nước Việt Nam Cộng Hoà (Tất cả các chức vụ dân cử khác như Tổng Thống hay Dân Biểu, ít nhiều đều có trò ma giáo) vì sợ Cộng Sản ám sát hay thủ tiêu, nên đêm đêm Ba tôi phải di động chỗ ngủ luôn luôn; nay ngủ nhà bà nầy, mai ngủ nhà bà kia… Rốt cuộc tham vọng chính trị của Má tôi như con dao hai lưỡi, thường đem lại những trận ghen tương ngầm dữ dội. Ba tôi rất bực mình, nhưng không dám trổ tài đánh vợ như những ông chồng nóng tính khác trong xóm. Nếu cần xả cơn tức, Ba tôi thường trút hết mọi bực bội lên đầu hai anh em tôi. Những lúc bị đòn ác liệt như vậy, tôi thấy Má tôi anh dũng nhào vô chịu đòn thế, làm Ba tôi phải chịu thua giạt ra. Vậy mà có một lần, hồi tôi mới bảy hay tám tuổi gì đó, Má hờn giận Ba, bỏ ra giếng nằm khóc, tôi ra nằm bên Má dưới trời mưa cho đến khi Ba tôi hết tức giận ra bồng mẹ con vào nhà. Sau trận đại thắng oanh liệt đó, ai cũng khen tôi là thằng bé thương Mẹ nhất. Nhưng cho đến bây giờ vào cuối đời Mẹ, thì tôi thấy người thương Mẹ nhất đời là anh tôi.
Sau gần mười năm trôi giạt ở Tân Đảo (Nouvelle Calédonie) thuộc Pháp, tôi trở lại nước Mỹ chưa kịp làm giấy tờ cho Ba Má sang chơi một chuyến, thì Ba tôi đã mất. Vài tháng sau anh tôi lo được cho Má sang thăm. Tôi thấy Má tôi vẫn còn đầy tham vọng chính trị. Đi chơi ngang dọc nước Mỹ nhiều lần, gặp lại biết bao người quen cũ còn thiếu nợ, nhưng được mọi người kính trọng vẫn gọi Má tôi bằng Bà Xã Trưởng làm Má tôi hài lòng không còn nhắc chuyện nợ nần gì. Lúc đó toàn quốc đang rộn ràng thi đua khai mạc đại hội đảng cho mùa bầu cử Tổng Thống Mỹ. Tuy không hiểu một chữ tiếng Anh, nhưng suốt ngày Má tôi ngồi trước máy truyền hình thích thú theo dõi ông Gore cười toe toét và ôm hôn vợ đằm thắm. Má tôi chê ông Bush không đẹp trai và không ga lăng dám hôn môi vợ như ông Gore.
Vụ kiểm phiếu Tổng Thống cù cưa chưa biết ai thắng bại, thì Má tôi đòi về để lo ngày giỗ giáp năm cho Ba tôi. Ít lâu sau, nghe tôi viết thơ báo tin ông Bush thắng, Má tôi không còn hào hứng bàn chuyện chính trị chính em gì nữa.
Một hôm nghe tin Má đau nặng, anh em bên nầy nhắc tôi gọi điện thoại về thăm Má. Quả nhiên:
– Má đã thấy bớt đau.
– Má muốn sang chơi với tụi con nữa không?
– Má không đi xa được nữa!
– Chúng con cho người về đón?
– Nhưng qua bên đó rủi Má chết, không được chôn cạnh nhau, Ba con buồn!