Như tình ta là giả

Tập Thơ: Như Tình Ta Là Giả
Tác Giả: nqnv
Võ Nguyễn Như Quỳnh
04/1973- 06/1993 Huế, Việt Nam
12/1993- 08/1998 Tucson, Arizona
08/1998- now LA, California
University of Arizona 08/1998
Computer Programmer
Nick names: belong, khongvui
Tặng: Nguyễn Thiện Trường
Mùa Thu 2006

Bài Tháng Sáu Cho Người
Võ Nguyễn Như Quỳnh

Tháng Sáu về nên viết lại bài thơ
Cành phượng tím như oằn mình thương nhớ
Nghe kỷ niệm cồn cào trong hơi thở
Mất bao nhiêu năm mới hiểu được tấm lòng

Biển lặng rồi lòng yên ắng như sông
Không yêu được đắm say như thời trẻ
Có chiếc lá vừa rơi chao rất khẽ
Có lúc nào người chợt nhớ đến ta?

Mùa hạ đến dần mùa xuân chia xa
Những đổi thay tưởng như là vĩnh cửu
Và bất chợt vọng về câu hát cũ
Để chạnh lòng nhớ lại thuở xa xưa

Không còn hồn nhiên được nữa câu thơ
Đêm dài lắm khi một mình thao thức
Cầu giấc ngủ yên bình là hạnh phúc
Giữ ánh mắt người ở lại giấc chiêm bao

Nỗi đau năm xưa cũng hoá ngọt ngào
Khi được mất với ta đều là được

Như Tình Ta Là Giả

Chẳng còn ai ở lại ở xung quanh
Khi tất cả đều ra đi lặng lẽ
Ta làm thơ như thói quen thường lệ
Có nỗi đau rơi xuống vỡ oà

Buồn thì buồn ngày bình thản trôi qua
Đêm vẫn mịn như nhung màu đen tối
Giọt nước mắt không còn nơi thác gởi
Có lẽ nào ta khóc với chính ta

Nên câu thơ cũng rơi xuống vỡ oà
Người hãy nghĩ như tình ta là giả
Hãy đi qua như một người xa lạ
Bốn mắt nhìn, vô cảm giác, không quen

Ngày có buồn thì cũng vẫn là đêm
Thơ cố viết cho mình, sao nhạt quá
Người hãy nghĩ như tình ta là giả
Chẳng có giọt máu nào khi cắn vỡ bài thơ

Ta với người như thế hết tình chưa
Thơ khô khốc vì thơ không biết khóc

Hương Quỳnh 1
Bài Thơ Thứ Nhất

Giá được làm cô gái đến từ hôm qua
Để được anh gọi cố nhân đầy luyến tiếc
Em đến sau chậm bước đời thua thiệt
Bởi vì em cũng chỉ là Quỳnh thôi

Quỳnh với những câu thơ tha thiết bồi hồi
Không giữ được chân người nào ở lại
Vụt một thoáng trôi qua thời con gái
Tuổi đàn bà thiếu phụ đè trên vai

Vẫn là em từ thuở phôi thai
Ba mươi mấy năm chưa hề thay khác
Anh có tin vào những điều huyễn hoặc
Vào những ước mơ, ngôi sao rụng xuống đời

Góp nhặt niềm vui ít ỏi trên đời
Như một cành cây vươn lên xơ xác
Anh hãy tưới vào em dòng nước mát
Kiên nhẫn đợi ngày kết trái đơm bông

Giữ cho mình mát dịu một mùi hương
Là hy vọng chưa bao giờ lụi tắt

Bài Thơ Thứ Hai

Nếu có thể được khổ vì yêu
Em cũng đủ hạnh phúc rồi anh ạ
Đã từ lâu trái tim mình hóa đá
Không yêu ai mới thật khổ vô cùng

Hãy dang tay ôm em chặt vào lòng
Làm cho đá cũng phải tan thành nước
Cho em hiểu rằng mình còn yêu được
Dẫu ngày mai mất hết cũng cam lòng

Cuối hạ rồi muà thu đang đến dần
Xung quanh em chỉ một màu trống rỗng
Em cần lá, dẫu là vàng hay thẩm
Em cần anh dẫu chỉ một ngày thôi

Em cần yêu như cần thở khí trời
Như kẻ đói đang vật vờ hành khất
Yêu em nhé, lời nài xin bất lực
Dẫu chỉ là yêu trên net mà thôi

Đêm Nay Anh Ngủ Với Bài Thơ
Bài Thơ Thứ Ba

và đêm nay anh ngủ với bài thơ
em vừa viết ngọt ngào lúc sẩm tối
lời anh nói như lời tỏ tình vội
giả sử thôi là em đã ngẩn ngơ…

và đêm nay anh ngủ với bài thơ
ôm rất chặt như ôm người tình nhỏ
chút tình cảm mỏng manh như cơn gió
em cũng mừng ngỡ gặp lại tri âm

cám ơn anh câu nói quá ân cần
chút mật ngọt giữa cuộc đời nhạt thếch
thơ em viết đêm nay là sự thật
nghe tim mình réo rắt chuyện không tên…

đến bao giờ anh mới sẽ…ôm em ?
siết thật chặt như tình nhân muôn thuở
giả sử thôi cuộc đời là phim bộ
đoạn cuối cùng em sẽ viết rất hay

Bài Thơ Thứ Tư

và đêm nay anh không thuộc về em
khi trong tay ôm người con gái khác
chút tình ảo trôi trên đời trắng bạc
không đủ làm vì sao nhấp nháy cho ai

đêm nay về ôm người ấy trong tay
khi em khóc, lệ trong lòng ráo hoảnh
nỗi cô đơn rơi xuống màn đêm lạnh
em ở đời thường, anh ở giấc chiêm bao

khi câu thơ em viết xuống nghẹn ngào
cả nỗi đau cũng có phần không phải
nếu có thể quay ngược thời gian lại
nắm tay anh em chắc chắn nhận lời

đêm nay về hôn người ấy trên môi
khi em khóc lệ trào dòng nóng hổi
giấu kỹ lại vào lòng điều chưa nói
anh có nghe nhịp tim đập điên cuồng ?

giữ cho mình tròn vẹn một lời thương
điều chưa nói không bao giờ lầm lỡ …

Bài Thơ Thứ Năm

sao buồn quá vậy hả T. ơi
khi đêm nay dài ra đăng đẳng
như ta và người ngỡ như gần lắm
nhưng thật ra xa đến vô cùng

ta và người trò chuyện không ngừng
về tất cả trên trời dưới đất
trao trái tim ra tưởng như là thật
nhưng cuối cùng còn lại chỉ trống không

có cơn đau ray rứt ở trong lòng
có nỗi nhớ mơ hồ không rõ rệt
người có biết, hay giả vờ không biết
ta và người chỉ tạm bợ mà thôi

ta với người không phải là một đôi
thơ ta viết ngập ngừng câu khựng lại
ta với người, người với ta không phải
ta với ai mới đúng là một đôi ?

Anh Sắp Về Chưa

anh sắp về chưa sắp về chưa
ngày tháng 9 cũng như vừa chạm ngõ
muà làm thơ cũng đã về rồi đó
trời mát hơn lòng cũng thiết tha hơn

cơn gió ùa qua se lạnh trong lòng
trái đã chín trên cành oằn trĩu quả
anh đi rồi không còn ai hái nữa
thơ em cạn rồi, anh sắp về chưa

anh sắp về chưa để đón muà thu
để đọc thơ em vô cùng quen thuộc
nghe em kể nỗi buồn từ kiếp trước
để yêu em như luật định đất trời

anh sắp về chưa quay đảo kiếp người
như em vừa lỡ bước chân đời muộn
em mất anh trong một ngày gió cuốn
chiếc lá cuối cùng rụng xuống trang thơ

anh sắp về chưa, sắp về chưa ?

Nửa của em
Bài Thơ Thứ Sáu

trăng bên ngoài song cửa một nửa thôi
như nửa em – trên đời vất vưởng
như nửa anh – chưa bao giờ xuất hiện
hay là em không có nửa của mình…

khi thượng đế tạo ra loài người
người đàn ông, người dàn bà, một nửa
tìm gặp nhau tạo nên thành cơ thể
nửa của em vất vưởng bên trời.

chưa bao giờ tuyệt vọng ở trên đời
nhưng có khi em hồ nghi đứng lại
thượng đế đãng trí, quên rồi có phải
thật ra em không có nửa của mình.

em đi tìm em đi tìm đi tìm
như thói quen, như không biết làm điều gì khác
anh, nếu thấy nửa của mình thất lạc
hãy đến gần và gọi khẽ tên em

Bài Thơ Thứ Bảy
Đêm của anh
Sep 13, 2006

đêm lê thê như một tiếng thở dài
bức chân dung không làm vơi nổi nhớ
anh thèm bên tai ngọt ngào hơi thở
được nghe giọng người khe khẽ đọc thơ

ở chung quanh lặng ngắt như tờ
những tờ giấy theo bàn tay sột soạt
ý trong đầu không thành trang viết
có thể nào em viết được hộ anh ?

có thể nào em đến từ trong tranh
rất thân mật ngồi cận kề bên cạnh
đêm như thế sẽ trôi vèo chóng vánh
anh rướt nàng cung kính đặt lên ngôi

làm nữ hoàng cho riêng chỉ anh thôi
đặt trái tim xuống chân người hầu hạ
đốt lâu đài đổi trận cười ha hả
đốt đời mình để đổi lấy… đời em

Hương Quỳnh 2 (tặng Thiện-Trường)
Bài Thơ Thứ 8

muốn làm thơ như chưa biết làm thơ
muốn yêu như yêu lần đầu bỡ ngỡ
muốn ngại ngùng như em còn mắc cỡ
và muốn làm cùng anh những việc chưa từng làm với ai

trời cali đẹp quá đêm nay
cơn gió lạnh thổi se mùa thu đó
thổi về anh nhẹ nhàng nổi nhớ
vào giấc mơ ôm ấp hình hài

tròn đêm nay anh hãy ngủ thật say
và tưởng tượng như mình còn trẻ lắm
em là cô gái chỉ vừa đôi tám
còn trinh nguyên da thịt ngọt ngào

đừng bao giờ anh tự hỏi vì sao
có cô gái lạ lùng và huyền bí
hãy nồng nàn vì em trong mộng mị
tỉnh giấc ra em cũng – thật – tầm – thường

đôi môi hồng và hơi thở run run
muốn cho lắm biết anh còn kịp nhận
nụ hoa nở về đêm bên đời muộn
ngát hương nồng chờ đợi dấu hôn môi

Đổi Lại Hai Mươi Lăm Năm
Bài Thơ Thứ 9
Sept. 14 . 06

hai mươi lăm năm đổi lại lấy một ngày
khi anh nói thơ em nhiều quyến rũ
chỉ một lời khen thôi là đủ
em chẳng tiếc mình phải đợi đến hai mươi lăm năm

thơ của em pha thêm vị mặn nồng
mùi của biển cũng ngọt ngào anh ạ
sáng thức giấc thấy mặt trời thật lạ
tối trăng về hồi hộp đón ngày sang

ai nói với anh không yêu được nhiều lần
sự ngạc nhiên ở đời lúc nào cũng có
em có thể làm thơ bằng hơi thở
nhưng chẳng thể nào thở được nếu không …anh

hai mươi lăm năm đổi lại lấy một lần
nghe trái tim hát lên lời lạ lẫm
tay nắm bàn tay đi tìm hơi ấm
em dựa vào anh kiếm lại chính mình

thơ bây giờ có lẽ sẽ bình yên
như sóng biển đổ về nơi bến cảng

Ta Điên Rồi Người Ạ
Bài Thơ Thứ 10

tạm biệt nhé người yêu ngày thứ sáu
tuần lễ qua rồi như giấc chiêm bao
ngày tình yêu ngắn ngủi thế này sao
duyên hạnh ngộ mỏng manh như tờ giấy

ta và người như mầm răng sưng tấy
chạm vào đau nhưng cứ muốn chạm vào
nước mắt rơi hương vị quá ngọt ngào
ghiền đau khổ như người ghiền thuốc phiện

môi cắn chặt mắt mờ tim hỗn loạn
cảm xúc về người như lửa hoả diệm sơn
dòng dung nham thiêu đốt cả tâm can
ta mới biết ái tình là khốn khổ

người và ta chất chồng thêm món nợ
trả kiếp này, hay hẹn đến kiếp sau
dù thế nào cũng là nhát dao đau
chiều thứ sáu, ta điên rồi người ạ

giờ tan sở anh về chưa đó hả
ở bên đây email ngủ im lìm
cái icon vàng chưa chịu hiện lên
sao không nói với em lời từ tạ ?

lòng dặn lòng đừng trách móc nhiều quá
khi thư người chưa kịp viết gởi sang
công việc nhiều nợ cơm áo chất chồng
tình trai gái có khi đành gác lại

em thì hiểu mà trái tim không phải
cuộc dằn co, trái tim thắng – em thua
là trái tim giận dỗi đó nghe chưa
em hiền lắm chẳng bao giờ trách cứ

chiều nay rơi có kẻ ngồi tư lự
mắt nai buồn như chực khóc rưng rưng
đồng hồ kêu tích tắc ở trên tường
nhanh lên chút, ngaỳ mai mình gặp lại

Bài Thơ Thứ 11

nỗi nhớ dài ra khi đêm dần ngắn lại
người bây giờ có mộng mị gì không
ngày hôm trước có điều gì chưa nói
sao đêm nay thương nhớ đến lạ lùng

ta với người phải quen từ kiếp trước
lỡ duyên nhau hẹn lại đến kiếp này
sao quen quá từng làn môi ánh mắt
chỉ tiếng cười câu nói cũng làm say

ta với người là mơ hay là thật
hai ngôi sao xích lại thêm gần nhau
gần như thế mà vô cùng xa cách
yêu thật nhiều sao cứ ngập ngừng… đau

ta với người, người với ta, luẩn quẩn
vòng dây yêu vương vít rối tơi bời
hẹn người nhé nửa đêm này trong mộng
ta đến gần nhè nhẹ ghé hôn môi

Chiếc Lá Đầu Muà

và cuối cùng, tạm biệt nhé người yêu
rụng xuống bên đường vàng hoe chiếc lá
có nổi buồn trong lòng dễ chịu lạ
rất nhiệt tình nhận cảm giác đớn đau

sẽ trở về nơi khởi điểm ban đầu
khi trái tim chưa rung lên thổn thức
hạnh phúc, khổ đau, lằn ranh mờ mịt
ta và người, hai thế giới rất riêng

xin đừng buồn đừng lo lắng cho em
ngaỳ sắp tới sẽ bình yên, chắc chắn
và cuộc đời sẽ thâm trầm sâu lắng
cả đớn đau, cũng thế, rất ngọt ngào

tạm biệt rồi, tạm biệt nhé, người yêu
xin chiếc lá đầu muà đem giấu cất
có vàng hoe như nổi buồn chân thật
cám ơn anh, những đau đớn tuyệt trần

Sophia Hồng-Ngọc

From: Nguyễn Việt-Trung
Date: Tuesday, September 30, 2008, 5:23 PM

Anh Vinh,
Cháu Hồng-Ngọc thâu mấy bài để nộp đơn vào Đại Học. Nhờ bác Vinh bình phẩm giùm?

Sonatine Movement III
French Composer: Maurice Ravel (March 7, 1875 – Dẹc 28, 1937)
Pianist: Sophia Hồng-Ngọc

HongNgoc

From: UncleVinh
To: Nguyễn Việt-Trung
Sent: Wednesday, October 01, 2008 12:00AM

Việt-Trung Quách Đại Hiệp,
Tại hạ sắp đến giờ luyện công, nhưng bất ngờ nhận được mấy bản đàn của cháu Hồng-Ngọc, bèn cùng phu nhân ngồi ngay ngắn nghe trọn vẹn 4 bản đàn tuyệt hay. Vừa nghe vừa hình dung lại hình dáng xinh đẹp và tài nghệ trác tuyệt của Hồng-Ngọc năm nào đã tấu các khúc nhạc ấy ở Thiết Thạch Trang.

Tại hạ thích nhất bản đàn Sonatine Movement III của Ravel, nghe như tiếng đàn của Thánh Cô Doanh-Doanh năm xưa tấu khúc “Thanh Âm Phổ Thiện Trú” vô cùng êm dịu để trị nội thương cho Lệnh Hồ Xung!
Hồng-Ngọc hiện đang theo học tại trường Đại Học nào?
Tại hạ rất ngưỡng mộ Đại Hiệp và Châu cô nương, cùng 4 đệ tử Minh-Ngọc, Hồng-Ngọc, Song-Hào & Quốc-Khải đều là những nhân vật ưu tú tuyệt đỉnh.

FOLKLORE

VIETNAMESE LEGEND & FOLKLORE
FOLKLORE
P. Kim Long

Ancient Vietnam has 3 kinds of writings: Chinese (period of Chinese dominion), Vernacular Vietnamese (in the 7th century), and Latinized (or Modern Romanized) Vietnamese scripts (from the 19th century to present day). The high-brow literature was written in the Chinese characters because Vietnam only achieved independence from the Chinese dominion in the year 930 but all Vietnamese kings and their ruling classes were a slave to the Chinese literature and culture: they used the Chinese characters in administration, diplomatic relations, education, examination and so forth.
However, we can easily transliterate Chinese words into Vernacular Vietnamese ones because our Vietnamese people only pronounced Chinese characters in Vietnamese pronunciation and Vernacular Vietnamese letters were a mere means of recording the pronunciation of Chinese and Vietnamese. Chinese characters and Vernacular Vietnamese letters were an ideographic system but Latinized Vietnamese letters were phonetic script. Therefore, we can easily transliterate all works written in Chinese characters and Vernacular Vietnamese letters into Latinized Vietnamese.
There were some books of folktales written in the Chinese characters but afterward there were some versions of translation from the Chinese characters into the Vernacular Vietnamese letters and finally into the Modern Romanized Vietnamese. The majority of folktales was oral or written in the Vernacular Vietnamese letters, therefore, they belonged to the low-brow, popular or folk literature.
Whether they were written in the Chinese characters and in the Vernacular Vietnamese letters or only retold in oral means, the Vietnamese folktales bore the signs of immanent humanity because they had the clear vestiges of Buddhism: philanthropy, compassion and leniency. Besides, they often covered metempsychosis and Karma: about 70 per cent of Buddhism and 30 per cent of Confucianism and other doctrines. Therefore, the ancient sages used folktales as moral lessons for the uneducated, especially for the women who always got no permission to go to school because of Confucianism’s male mastership.

FENG SHUI GEOMANCER TA AO

VIETNAMESE LEGEND & FOLKLORE
14. FENG SHUI GEOMANCER TA AO
Phạm Kim Long

He was born in the Ta Ao village, Nghi Xuan district, Thanh Hoa province. His family name was Nguyen and his nickname Duc Huyen but his given name fell into oblivion right after his death, so he was named Ta Ao after his natal village.
Being very poor in his childhood, he earned a poor living as a handyman to support his old parents. One day when passing the river Phu Thach, he saved a rich Chinese trader from drowning. After having recovered consciousness, the latter offered him a great sum of money to express his gratitude, but Ta Ao refused resolutely. Being good at Chinese Physiognomy and Oriental Horoscope, the Chinese trader congratulated him because he had a fairy-like manner.
“You’ve a surpassing appearance,” the latter spoke in a sincere manner. “Being helpful to everybody, you aren’t gain-minded. Therefore, you should study Feng Shui geomancy so that you may be of service to everybody. I’m willing to defray the cost of your study and residence in China to repay my debt of gratitude to you.”
Being jubilated over the Chinese stranger’s suggestion, Ta Ao accepted his generous kindness and followed him to China. The latter guided Ta Ao to the Quang Dong province and introduced him to a famous Feng Shui geomancer. Being devoted and kind-hearted, his Chinese teacher instructed his Vietnamese student wholeheartedly in Feng Shui geomantic arts. After one year of laborious study, suddenly his teacher suffered from an acute malignant conjunctivitis and would be half-blind if there was no effective treatment. Indeed all traditional physicians were helpless to cure it after many months of continuing treatment. Suddenly Ta Ao remembered one secret method of his hereditary treatment. His five-generation ancestor had been an experienced physician. He asked his teacher for permission to put his hereditary method into practice. It would seem that his teacher reached an impasse. He disinfected the patient’s back by rubbing slices of ginger on it for some times. After having dried a sewing needle on the fire, he punctured it on some points of his teacher’s back to bleed some drops of violet blood. Afterward he boiled some medical herbs to obtain a thick liquid and told his master to drink it. Only after a week, his teacher recovered from his illness and his eyes became normal. To show gratitude to his dutiful disciple, his teacher instructed him wholeheartedly. After three years of diligent study, his teacher tested him in Feng Shui geomantic knowledge. He leveled a heap of sand after having hid 100 coins in it. After having drawn 100 geomantic points on the sand, he told his pupil to locate the sites of 100 coins in the sand. They were the typical of 100 geomantic sites according to the Chinese art of Feng Shui geomancy. After having handling his knowledge and what he had learned from his teacher, Ta Ao could unearth 99 among 100 coins hidden in the sand. His teacher was elated because he was the first among his disciples to have such mastery.
“My Feng Shui geomantic art is now bequeathed to Vietnam!” he spoke under his breath regretfully.
He knew well that the mastery of Feng Shui geomantic art always required three elements: intelligence, diligence and especially endowments. He had five children but only two sons took up Feng Shui geomancy as a profession but they both got no innate ability. He also gave his dear disciple two precious items: a Feng Shui compass and a very rare handbook covering Feng Shui geomancy, talismans and spells.
“These two things are very special, especially in Vietnam,” he recommended to him in a pleading voice. “You should keep them for yourself and keep them secret. Nobody has permission to get them.”
Before his return to Vietnam, he knelt down to say farewell to his teacher respectfully.
“There’s a magical burial site in the Chau Phuc district of the Nghe An province,” his teacher again recommended to him secretly. “You should exercise extreme caution to inform it to your client. That geomantic site is only reserved for the blessed. Fate decides our act. We can do nothing against God’s will. Your bad decision may cast blight on you and even on your teacher too. You’ll get serious consequence if you do against conscience.”
After having returned to his native village, he began earning his living by searching prosperous sites. One day, he recalled his master’s recommendation so he went to the Chau Phu district. It was an auspicious site which departed from the Hong Linh mountain range. It had 36 dragons in attendance while the Phu Thanh riverside looked like a royal council chamber, besides, thousands of soldiers and horses were surrounding this geomantic site. He thought that this site was only reserved for the qualified emperor or king and he had no permission to sell his information to anybody even he got well rewarded. He would get immediate effects if he was greedy for gain. So he kept it secret.
After having mastered the Feng Shui geomantic art, but having no condition to execute it, he decided to travel round the country to search qualified clients. One day, he reached the Bat Son village of the Hoang Hoa district and found an auspicious site.
“I’ve just found a prosperous site in this region,” he told to the local people. “If you bury your parent’s corpse in the Dan (tiger) time (3-5 o’clock), you’ll acquire wealth at the Mao (cat) time (5-7 o’clock). I only get one tenth of your gain as a reward.”
After having heard such strange word, a middle-aged man came to make contact with him. Following his advice, the latter buried his dead mother’s bones in the newly dug grave. After having done his job, he took his dirty tools to clean them in the next river. Suddenly he saw a corpse of a drowning man. To show mercy to the ill-fated man, he dug a deep hole to bury him. He lifted up the corpse but it was too heavy so he touched its body and found that it had a big parcel. He opened it and found that it contained 50 taels of gold. Ta Ao only got 1 tael of gold as his reward. Afterward he told him how to bury that ill-fated victim.
One day he reached the Thanh Hoa district of the Ha Nam province and discovered an auspicious site which would render dukedom.
“This prosperous site may give you a golden occasion to become a duke,” he again told to the local people. “I only get one tael of gold as a reward.”
A rich old man in that village came to make contact with him. During that time rebel Mac Kinh Do was at war with the Later Le dynasty. But finally after having lost a great battle, he was reluctant to escape for some consecutive months. The king decreed that any person could turn him to the local mandarin would be rewarded with dukedom. After having heard such news, the rich man hired some detectives to investigate the rebel’s trace. After many days and nights of dodging the hot pursuit, the rebel suffered great hardships and became in low spirits to surrender. He told to the rich man that he agreed to be turned to the king if he had a sumptuous feast. After having turned the rebel to the king, the rich man received a dukedom in reward for his bravery. He gave the Feng Shui geomancer one tael of gold as a reward. From then on, Ta Ao was famous throughout the country. He traveled round the country from the north to the south: in any zone of the country he also gave auspicious sites to qualified clients. The greatest one was to become a Doctorate winner or a high-ranking mandarin and the smallest one was to become a Baccalaureate holder or a district chief.
One day he reached the Thien Mu village and discovered a divinely auspicious site. He wanted to sell his information to a rich landlord named Tran. But after three times of putting his Feng Shui compass on that site, it fell off the table onto the ground three times. Finally, he burned incense to pray and bow to the Local Deity to get information. The latter explained that God had reserved that prosperous site to a certain man named Nguyen Quy Duc because its site owner would get the position of Prime Minister for three generations. The Local Spirit also told that the Tran family had no permission to enjoy that auspicious site because of his unblessed cause. Ta Ao understood that if he broke the heavenly law, he would get disaster. Afterward he relinquished his intention of selling it to the Tran family.
One day he discovered the special site of an utmost prosperity in the Ham Rong zone of the Nghe An province. This site may offer kingship to descendents for thousand years. At once, he returned home to inform it to his brothers to carry their dead father to that site. It was turning to rain while there was a thunder-storm. This auspicious site was a small pit. Suddenly it became large and deep while columns of smoke were rising from it.
“We must put our dead father in that pit,” he raised his voice urgently. “Hurry along, my brothers! The magical dragon is opening its jaws. If we delay, it’ll shut its mouth. It’ll only open its jaws after each five hundred years.”
His brothers refused to put their dead father in the pit because they didn’t want to lose their father’s corpse for ever. Suddenly, there was a roll of thunder and the pit disappeared while the ground became perfectly even.
“The dragon has just shut its jaws!” he told them regretfully. “It’s over now! We’re resigned to our fate! Our descendants will live their simple lives.”
Finally, he told them to bury their father in a prosperous site about two miles from the former pit. It was an auspicious site too and their father would become a Blessed Genie to enjoy worship yearly by the local people.
At the age of 60, he decided to return to his native village to live peacefully with his great family and to end his career in Feng Shui geomancy. Then one day he felt rather diseased and understood that he was at death’s door so he told his two sons to convey him on a stretcher to the Dong Phuong district about 100 miles from his native village. This region had an auspicious burial site which may offer kingship to descendants for one thousand years. But they only set out half the way when their father was dying. Finally, he told them to bury him in a small hill to get worship yearly by the local people. It was fated that he would be a Presiding Genie of an on-spot village.
There was an anecdote about Ta Ao. One day after a nightly banquet, the Chinese emperor took his ministers of state to the royal park to study astrology. After a moment of observing the astral phenomenon, his royal astrologer pointed at a brilliant star in the south and informed the emperor that the Vietnamese Feng Shui geomancy was reaching its highest peak and that in a near future Vietnam would surpass China in culture and armaments. He also explained that a certain Chinese Feng Shui geomancer had transmitted this art to a Vietnamese. At once, the Chinese emperor issued an imperial decree to punish those who broke the law. After having heard about bad news, the Chinese geomancer at once made plans for redressing his mistake. He told his two sons to visit his former disciple in Vietnam to destroy some most auspicious sites and to add some wrong characters in his rare handbook of talismans and spells. After a two-month journey, they met their former schoolfellow. Ta Ao entertained them generously and concealed nothing because it was his right obligation of a disciple toward his venerable teacher. Sometimes he guided them to observe few auspicious sites. But they always pleaded their own discovery to go alone without his company. After having reached some most auspicious sites which had been determined by their father, they found way to destroy dragon’s important veins so that these most auspicious sites became valueless. Afterward they again returned to his house to stay for a fortnight to wait for occasion. Right when he absented himself from home for some days, they began expediting their malicious plan. They mixed lampblack with coconut oil to make a kind of black ink and added some ambiguous characters in his handbook of Feng Shui geomancy which had been given by their father to Ta Ao. Due to their deeds, their father enjoyed immunity from prosecution because Vietnam was always inferior to China and was never powerful to encroach on China. It was told that Great Emperor Quang Trung, after his glorious victory over the Chinese invaders in 1789, prepared his seasoned army and military supplies for attacking China to claim back two provinces (Quang Dong & Quang Tay) but was struck by sudden death in 1792. It was said that his ancestor’s remains were buried in one of those most auspicious sites which had been secretly destroyed one hundred years ago.

Notes
1. Geomancy
According to Wikipedia, “geomancy” is a method of divination that interprets markings on the ground, or how handfuls of dirt land when someone tosses them. It has existed in China, Arabic countries, Africa… for thousands of years. Due to the above definition, geomancy is a mere method of divination performed and based on the local ground.
2. Feng Shui
Feng Shui is only for the living people because it only brings good luck to its on-spot people. It may derive from the “safety first” idea. In olden times the population was still ignorant and sparse so they always selected a safe zone against wild animals and brigands. For them, a safe place always stood against any hill and was in front of a river or a big lake. Their above prejudice became their conception of life to select their safety place to build their houses. Finally, it became the Feng Shui theory. Gradually, only in rural zone they could build their houses close to a river and a hill, but in towns there were no river and mountain so they were reluctant to find other artificial work to substitute for water and mountain, which was a man-made set of miniature rock and spring to put in their houses.
It is the ancient Sino-Vietnamese practice of placement and arrangement of space to achieve harmony with the environment or to normalize the balance of Yin and Yang elements in the world because the ancient people believed that energy grids (below or above the ground) or the electromagnetic field had an effect on health, wealth, reputation and power of human beings. This ancient practice serves any person concerned when he or she is still living. It describes the environmental interaction with the human beings or the direct relationship between people and their environments.
3. Feng Shui Geomancy
I must coin a new word “Feng Shui Geomancy” to denote a divination method of the ancient Sino-Vietnamese people who believed that the location of burial site can conceivably have consequences – good or bad – on future generations of the dead person buried in that grave.
Feng Shui geomancy is only for the dead, but it may bring good luck to its on-spot deceased and especially to the children of the dead.
It is the ancient Sino-Vietnamese practice of discovering an auspicious area for a burial site to inter a corpse or mortal remains (bones, cremated remains) because subtle energies (earth radiations, electromagnetic field) may affect the dead person’s descendants for some next generations. The type of environment you bury your parent’s corpse can have profound influences on your present life and your own family for your present life or for some next generations. For example, a burial site which is located on a mountain range “like a woman lifting up her skirt” will produce future generations of prostitutes; a burial site which is located near a low hill and a pond “like a pen and an ink-pot” will generate future descendants of literature…
Retold by Phạm Kim Long
Saigon, 2006

MOUNTAIN & WATER SPIRITS

VIETNAMESE LEGEND & FOLKLORE
4. MOUNTAIN & WATER SPIRITS
Phạm Kim Long

Being King Lac Long’s descendant, Spirit Tan Vien was poor during his childhood. He resumed his career as a woodcutter to earn his living. Being poor, he suffered great hardships but he often helped the poor and miserable people. His kindness moved the Heaven deeply, so one day he was given a magical wand. It had healing powers. From then on, he may cure all patients of their diseases.
One day he met a seriously injured snake. It blinked its eyes miserably as if to beg him for treatment. At once, he stopped walking and began making a medical examination. After having been cured, the snake introduced itself as the Prince of the Junior King of the Seas and invited him to visit his Aquatic Palace to express his thanks to his benefactor. Before his benefactor’s return home, the Prince gave him a magical book of wish. From then on, Tan Vien often cured many kinds of malignant and perilous illnesses besides he would save many miserable people.
Finally, he left his native region for the mountain Tam Dao about 50 kms North of Hanoi and began building a grandiose magnificent palace. He protected all poor people against wild animals and treated incurable diseases, so the on-spot people extolled him as the Holy great physician and the Savior and called him the Mountain Spirit (Son Tinh).
During that time there lived a divinely beautiful princess named My Nuong in the Hung reign and there were only two qualified applicants for marital offer because they were powerful and magical. They were the Mountain Spirit and the Water Spirit. The former governed all mountains and forest while the latter controlled the rivers and sea. Being very perplexed, the king didn’t know how to select the Royal Son-in-law because both of them were talented, staid and elegant. Finally, the king decided that the one who came firstly to welcome the bride in the next morning would be selected for being the Royal Son-in-law.
The next day at the early daybreak, the Mountain Spirit was the first applicant to be present at the royal palace and could take the Princess to the peak of Ba Vi.
Being apathetic-natured, the Water Spirit was the latecomer. When he arrived there, the former had taken his bride to the mountain to celebrate his sumptuous wedding rites. Having flown into a violent temper, the Water Spirit caused floods in the two banks of the Red River damaging many houses and rice field. He also mobilized his aquatic monsters such as giant water-snakes, crocodiles… to attack his enemy. The more the water rose high in an action of drowning the mountain in water, the more the mount stretched high and loftily. The more the aquatic monsters rushed to destroy forest and mountains killing many innocent people and animals, the more rock and tree fell in killing these wicked aquatic beings. After having known that many innocent people were victims in the flood and eaten by those hungry aquatic monsters, the Mountain Spirit taught his people how to make bows and arrows to kill those wicked aquatic beings. Therefore, his people had enough fish to eat in flooding. Finally, the Water Spirit lost a battle after having suffered heavy losses and was unwilling to withdraw without getting his beloved back.
Afterward, the Mountain Spirit taught his people how to build solid dams, to stiffen dyke systems and to dredge all rivers to provide against flood. After having known that his rival had known well how to handle flooding, the Water Spirit was able to wage war on the Mountain Spirit each 5 years a time. Therefore, in Vietnam there is a great flood after each 5 years.
Retold by Phạm Kim Long
Saigon, 1970

King Midas and the Golden Touch

Ngón Tay Vàng
Thái-Vinh dịch từ truyện cổ tích “King Midas and the Golden Touch”

Vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, vua Midas cai trị xứ Phrygia (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) là một ông vua rất mê quý vàng. Vua Midas đã có nhiều vàng nhất thế giới rồi, nhưng ông nghĩ vẫn còn ít, nên chưa bao giờ mãn nguyện khi chưa có thêm vàng chất vào kho. Mỗi ngày Midas vào kho tàng châu báu một mình, ngồi mân mê đếm đi đếm lại từng cục vàng, và nghĩ thầm, “Một ngày kia, con gái ta sẽ là nàng công chúa giàu nhất thiên hạ!” Nhưng công chúa Marygold không thèm ngó ngàng đến những vật sáng chói vô tri giác trong kho châu báu của vua cha. Nàng chỉ yêu thích hoa, suốt ngày thơ thẩn một mình trong vườn thượng uyển trong khi vua cha bận tâm trân quý kho vàng, không thường kể chuyện hay đi bộ với con. Một ngày kia, trong lúc đang đếm vàng, chợt nghe có tiếng nói bí mật của một người đàn bà vô hình:
– Nhà vua thật có quá nhiều vàng!
Vua Midas tuy hoảng sợ, nhưng vẫn tham lam:
– Nhưng…nhưng ít ỏi bấy nhiêu đây thì có nghĩa gì với tất cả số vàng ở thề gian!
Giọng nói bí mật ngạc nhiên:
– Nhà vua vẫn chưa vừa lòng à?
Vua Midas thở dài:
– Đêm đêm ta vẫn thường mất ngủ suy nằm tính kế hoạch tìm thêm vàng. Ước gì ngón tay ta đụng vào thứ gì là thứ ấy hóa thành vàng thì mới mãn nguyện!
– Có thật nhà vua muốn như thế chăng?
– Còn điều gì sung sướng hơn bằng!
– Được rồi! Khi những tia sáng ngày mai xuyên qua cửa sổ thì nhà vua sẽ có ngón tay vàng!
Đến đây giọng nói bí mật kia im bặt, vua Midas dụi mắt thẩn thờ, “Nãy giờ ta đang nằm mơ chăng? Nếu ta có ngón tay vàng thì còn gì hạnh phúc hơn. Nhất định con gái ta sẽ là nàng công chúa giàu nhất thiên hạ!” Thế là suốt đêm vua Midas rạo rực không tài nào nhắm mắt được. Ông thức giấc nhiều lần đưa tay vén màn cửa sổ, nhưng chưa thấy thay đổi gì làm ông thở dài buồn bã, “Làm gì có chuyện ngón tay vàng hoang đường!” Nhưng khi những tia nắng ban mai đầu tiên xuyên qua cửa sổ và ngón tay vua Midas chạm vào màn cửa, thì lập tức màn cửa biến thành vàng. Ông sung sướng reo lên, “Thật rồi! Thật rồi!” Rồi vừa reo mừng vừa chạy quanh phòng đưa ngón tay chạm vào thứ gì là thứ ấy bỗng trở thành vàng sáng chói. Từ giường ngủ, gối ngủ, bàn ghế…cho đến đôi giày tất cả đều biến thành vàng. Nhìn ra vườn thượng uyển, vua Midas nghĩ thầm, “Con gái cưng của ta sẽ vui lòng biết bao nếu các loài hoa sớm nở tối tàn kia đều biến thành vàng!” Tức thì nhà vua chạy ngay ra vườn hoa đảo một vòng biến tất cả thành vàng. Việc nầy làm ông phí nhiều sức thấm mệt. Khi người hầu mang thức ăn vào, ông vội vã chụp lấy một trái đào đưa lên miệng cắn, thì trái đào đã hoá thành vàng cứng ngắc tự bao giờ. Buông trái đào ra, vua Midas lấy món gỏi cuốn, thì gỏi cuốn cũng biến thành vàng. Lấy nước uống, thì nước cũng đặc thành vàng. Vua Midas kinh hãi kêu, “Hỡi ơi, ta phải làm sao đây? Khi đang đói mà không thể ăn, đang khát mà không thể uống được vàng?”
Vừa lúc đó, cánh cửa sụp mở, Marygold cầm nhánh hoa bước vào khóc nức nở:
– Cha ra mà xem…tất cả vườn hoa hồng đã biến thành đá cứng xấu xí vô cùng…
– Hoa vàng đẹp đẽ hơn trước nhiều mà con không thích ư?
– Không! Không! Hoa đã chết không còn rung theo gió tỏa hương thơm được nữa. Con muốn hoa hồng sống cơ!
– Con đừng quan tâm! Hãy ăn uống cái đã!
Nhưng Marygold nhận thấy vua cha không ăn uống mà mặt lại có sắc buồn, nàng rất quan tâm:
– Việc gì đã làm cha buồn bã?
Nói xong, Marygold chạy lại ôm hôn cha. Vua Midas cảm động ve vuốt an ủi cô công chúa. Thốt nhiên ông kinh hãi rụng rời khi nhìn thấy khuôn mặt vô cùng xinh đẹp của Marygold đã biến thành vàng, đôi mắt đã mù và đôi tay nhỏ bé không còn ôm chặt ông được nữa…Nàng công chúa ngây thơ xinh xắn đã biến thành tượng đá vàng!
Vua Midas gục đầu khóc thổn thức.
– Nhà vua không vui sướng ư?
Nghe lại giọng nói bí mật phát ra trong kho tàng hôm qua làm vua Midas bàng hoàng:
– Ta…ta là người bất hạnh nhất thế gian!
– Nhà vua đã có ngón tay vàng mà vẫn còn thấy chưa đủ à?
Vua Midas xấu hổ im lặng.
– Nhà vua thích ăn uống, hay thích cầm vàng?
Vua Midas không thể nào trả lời được.
– Ô, vua Midas! Thế ngài muốn chọn tượng vàng kia, hay chọn cô con gái xinh xắn biết chạy nhảy, reo cười, và biết yêu mến cha?
Vua Midas gào khóc:
– Hãy trả lại con ta! Ta chịu mất tất cả kho vàng!
– Nhà vua thật sáng suốt hơn hôm qua. Hãy ra sau vườn thượng uyển, nhảy xuống sông tắm rửa ngón tay vàng, rồi lấy nước rảy lên tất cả vật gì đã hóa vàng để lấy lại hình dáng cũ!
Vua Midas lập tức chạy phóng xuống sông tắm rửa và múc nước rảy lên mọi thứ vàng giả tạo.
Marygold mở choàng đôi mắt kinh ngạc reo mừng:
– Cha xem kìa, vườn hoa hồng đã sống lại!
Vua Midas sung sướng ôm ôm chặt con và cảm thấy mình là kẻ hạnh phúc nhất thế gian.

Vietnamese Writing Language

Chữ Việt Nam
Thái-Vinh

Từ ngàn xưa, người Tàu ở phương bắc đã tìm cách gây chiến tranh liên miên với láng giềng để dần dần thâu tóm thiên hạ. Việt Nam bị xâm chiếm và biến thành một quận nhỏ của nước Tàu hơn một ngàn năm. Người Việt Nam tuy có tiếng nói riêng, nhưng chưa có chữ viết, phải dùng chữ Tàu. Ngay cả những thời đại tự chủ giành được độc lập, bắt đầu từ thời Ngô Quyền đánh bại quân Tàu ở trận Bạch Đằng Giang năm 938 trở về sau, Việt Nam vẫn dùng chữ Tàu hay còn gọi là chữ Hán. Dần dà để tránh bị ám ảnh bởi nỗi đau đô hộ của giặc Tàu, ông cha ta lại gọi đó là chữ Nho, và chế ra chữ Nôm bằng cách mượn âm, nghĩa, thêm bớt nét, hay ghép chữ Nho để ghi âm tiếng Việt. Chỉ trừ một triều đại Tây Sơn ngắn ngủi 24 năm (1788-1802), vua Quang Trung ra lệnh dùng chữ Nôm hoàn toàn thay thế chữ Nho; nhưng rồi chữ Nho lại được triều Nguyễn (1802-1945) chính thức dùng trở lại cho đến năm 1919 mới được chính quyền bảo hộ Pháp cho thay thế hoàn toàn bằng chữ Quốc Ngữ, tức chữ viết mà người Việt Nam đang dùng ngày nay. Các áng thơ kiệt tác của Việt Nam như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều, thơ của Hồ Xuân Hương, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu … đều viết bằng chữ Nôm. Chữ Nôm ngày nay không còn mấy người biết vì khó học lại còn khó nhớ hơn chữ Nho!
Do khó khăn trong việc học nói tiếng Việt mà phải dùng chữ Nho để viết; nên các giáo sĩ Thiên Chúa Giáo của Bồ Đào Nha (Portugal), như Francisco de Pina, Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa … sang Việt Nam truyền đạo từ năm 1617 đã dựa trên các chữ cái và các dấu phụ từ chữ Bồ Đào Nha, Latin, Hy Lạp… phát minh ra chữ Quốc Ngữ. Nhờ đó Alexandre de Rhodes đã cho in cuốn Từ Đển Việt-Bồ-La năm 1651. Các học giả yêu nước, như Pétrus Ký (Trương Vĩnh Ký), Paulus Của (Huỳnh Tịnh Của), và Trương Minh Ký đã đi tiên phong trong phong trào truyền bá chữ Quốc Ngữ. Từ năm 1865, người Việt Nam đã bắt đầu biết coi Gia Định Báo (1865-1897) và đọc sách tiếng Việt. Sau đó Nguyễn Văn Vĩnh với Đông Dương Tạp Chí (1913-1919), Phạm Quỳnh với Nam Phong Tạp Chí (1917-1934), và Nhất Linh với báo Phong Hóa, Ngày Nay, và Tự Lực Văn Đoàn (1932-1942) hăng say cổ xúy phong trào chữ Quốc Ngữ thì cách viết tiếng Việt đã rất trong sáng và phong phú.
Dân tộc Việt Nam biết bắt lấy cơ hội thoát ly khỏi chữ Tàu. Việt Nam đã may mắn có chữ viết riêng, đơn giản như chữ viết của các nước Tây phương. Người Việt Nam dễ dàng vượt trở ngại ngôn ngữ, học hỏi, và làm bạn với các dân tộc biết yêu chuộng tự do và tôn trọng nhân quyền thay vì bám vào người láng giềng xấu. Học nói và viết tiếng Việt Nam là thể hiện tình yêu gia đình, nguồn gốc, và để đọc được di chúc của tiền nhân “Cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu”.

Chef Buffalo

Chuyến đi để đời với Chef Buffalo
(Đăng trong nguyệt san Bút Tre số tháng 7, năm 2014)
Thái-Vinh

Năm mươi tiểu bang nước Mỹ với hai đảo US Virgin và American Samoa có 58 Công viên Quốc Gia (National Parks) là những cảnh đẹp thiên nhiên trứ danh trời ban cho đất nước được cơ quan National Park Service giữ gìn và phát triển để phục vụ nhu cầu giải trí và giáo dục dân chúng. Nhưng không phải tiểu bang nào cũng được ưu đãi có một cái Công viên Quốc Gia để khoe cảnh đẹp quanh nhà vì chỉ riêng hai anh lớn Alaska và California, mỗi anh đã ôm 8 cái Công viên Quốc Gia. Kế tiếp là Utah 5 cái; Colorado 4 cái; tiểu bang nhà Arizona đồng hạng với Florida và Washington, mỗi anh được 3 cái, đáng tự hào là những tiểu bang đẹp thu hút khách du lịch. Ba Công viên Quốc Gia của Arizona là Grand Canyon thành lập từ năm 1919, Petrified Forest năm 1962, và Saguaro năm 1994. Cả thế giới đều biết tiếng Grand Canyon nên Arizona còn có biệt hiệu là Grand Canyon State. Saguaro ở Tucson có thể ít được để ý vì đại xương rồng Saguaro mọc khắp sa mạc Arizona; nhưng còn Petrified Forest thì sao? Năm chúng tôi vào ẩn cư hẳn trong sa mạc, tìm không gặp Thiết Thạch Đại Phu để được hướng dẫn ngay; vài hôm sau lão đăng vài tấm hình Petrified Forest trên mạng và chê chỗ ấy không có gì coi làm chúng tôi hơi thất vọng, chưa vội đi thăm ngay Công viên Quốc Gia thứ hai của Arizona. Một hôm nàng nói “Thầy Thường sắp qua cho anh tha hồ giới thiệu cảnh đẹp quanh nhà!” Lúc còn đi học, tôi đã từng dạy kèm học trò; nhưng giấc mộng làm thầy giáo của tôi không được ông cụ tán thành. Tôi vẫn có cảm tình với các thầy làm cái nghề cao quý bạc bẽo, nhưng bù lại, được học trò thương thầm; có khi yêu thật phát điên cuồng hay tự tử vì cha mẹ nào cho phép con gái lấy thầy trái với phong tục quái đản “Thầy là cha mẹ” của người Tàu truyền sang Việt Nam từ hàng ngàn năm qua? Pho võ hiệp “Thần Điêu Đại Hiệp”của Kim Dung đã diễn tả mối tình rất gay cấn giữa cô giáo Tiểu Long Nữ và cậu học trò Dương Quá vì cả phái Toàn Chân nhất quyết rượt giết Dương Quá về tội dám yêu cô giáo trái với luân thường đạo lý! Nàng cũng như các thiếu nữ mọi thời đại đều tán thành thầy trò yêu nhau và lấy nhau. Tôi không cổ hủ; nhưng mối tình thầy trò nên phát triển một cách thơ mộng và trong trắng, không bao giờ lấy nhau. Tại vì sao? Xin đợi gặp Thầy Thường tức Chef Buffalo ở hồi sau sẽ rõ.
Thầy Thường hiện cư ngụ tại Pháp. Người Việt ở Pháp sang Mỹ du lịch thường bị lạc lõng, chê Mỹ thiếu phương tiện di chuyển công cộng tiện lợi như xe điện ngầm, ra đường phải lái xe, làm việc như trâu cày, ít ngày nghỉ, thích coi phim bắn giết, mê shopping, ăn uống hoang phí … Còn người Việt sống ở Mỹ sang Pháp du lịch, khi về nhà thề không thèm đi nữa vì nhà cửa bên Tây chật chội, thiếu nước nóng để tắm, thiếu nhà vệ sinh công cộng, vật giá đắt đỏ, nhiều Rệp, không biết tiếng … Coi ra ai cũng có lý do chê bai chính đáng cả; nhưng thường thường người Việt bỏ Pháp sang Mỹ đoàn tụ gia đình, hưởng già, hay tìm cơ hội việc làm và hôn nhân nhiều hơn người Việt bỏ Mỹ đi Pháp hay bất kỳ một xứ khác.
Hôm gặp thầy Thường, tôi thấy thầy không giống những người Việt ưa chê bai, ganh tị nước Mỹ, hay muốn sang Mỹ tìm cơ hội dù thầy đang đau khổ vì ái tình. Trừ đôi mắt kiếng cận thị còn lưu nét ông thầy đạo mạo năm xưa, tướng tá thầy như một bác làm vườn, nói cười sang sảng ẩn tàng nội công thâm hậu. Cùng đi với thầy là người bạn thời niên thiếu, hiện ngụ tại San Jose. Anh Hùng là một nhân vật đại hiền, lúc nào cũng nở nụ cười dù đường tình duyên của anh nửa đường cũng gãy cánh!
Sau một đêm nghỉ ngơi cho hai người bạn trở lại thời chung chăn tri kỷ và làm quen khí hậu ngày nóng đêm mát trong sa mạc, phái đoàn lên đường đi thăm Grand Canyon qua ngả Sedona. Trườc khi ra xa lộ, nàng nhắc tài xế ngừng xe cho anh Hùng mua nút nhét tai. Tưởng anh mệt, muốn yên lặng ngủ, nhưng anh vui vẻ thức coi cảnh đẹp và nói chuyện suốt dọc đường. Hành trình coi cảnh đẹp được nàng soạn sẵn và chuẩn bị thức ăn nước uống đầy đủ. Ngày thứ nhất Hiking Bright Angel và nghỉ đêm tại Bright Angel Lodge trong Grand Canyon. Để khuyến khích thầy Thường, nàng cùng Hiking xuống tới trạm nghỉ thứ nhất, chỉ mới 1.6 dặm đã thấy thầy thở rống, bèn dẫn trở lên; còn anh Hùng theo tôi đi thêm 1.5 dặm nữa đến trạm nghỉ thứ hai, để cho anh ngắm vẻ đẹp hùng vĩ và thú vui Hiking trong lòng Grand Canyon. Đêm ấy, phái đoàn may mắn được một phòng trống hai giường trong Bright Angel Lodge. Anh Hùng chia cho nàng và tôi mấy cái nút, dặn phải nhét tai trước khi ngủ. Sau một ngày lái xe mệt mỏi tôi thiếp đi. Khoảng nửa đêm, nghe tiếng trống đánh ngang tai muốn bể màng nhĩ dù tai đã nhét nút. Ngó qua giường bên kia chỉ thấy tấm chăn đắp trùm kín đầu phập phồng như biển dậy sóng. Tôi giật mình, bước xuống giường, dẫm phải người đang trùm mền ngủ dưới sàn. Đột nhiên còi hụ rú báo động liên tục! Nàng ngơ ngác ngồi bật dậy; còn người nằm dưới sàn tung mền đập túi bụi lên người trùm chăn. Cả bọn phóng theo đoàn du khách thoát ra cửa cấp cứu tập trung ngoài bãi đậu xe. Không phải cháy nhà, cũng không phải trộm cắp, nhưng chẳng biết lý do gì còi rú báo động? Sau một lúc đứng dưới bầu trời lạnh đoán mò, chúng tôi được phép trở vào phòng; nhưng không còn ngủ nghê gì được nữa!
(Xem tiếp trang 2)