Category Archives: TUỔI THƠ

Viết cho trẻ em

A Birthday Gift

Món quà sinh nhật
Thái-Vinh

Ở hãng làm, Barbara thường ăn trưa vội vàng, rồi xin phép ra sân hút thuốc lá. Tôi không thích mùi thuốc lá vì nó gợi tôi nhớ nguyên nhân ung thư phổi do thuốc lá gây ra cái chết của ba tôi. Tôi không biết nên khuyên thế nào cho Barbara bỏ được thuốc lá để giữ hai buồng phổi trong sạch. Barbara là bà mẹ nghèo, một mình vất vả nuôi hai đứa con. Hôm đi Caye Caulker trở về, tôi kể cho Barbara nghe đời sống tà tà ở đảo không cần xe cộ; dân chúng chỉ đi bộ hay cỡi xe đạp. Tôi khen:
– Chẳng những không bị hít mùi khói xăng, mà còn không bị vướng mùi thuốc lá nữa!
Barbara lộ vẻ buồn:
– Vậy là em không ở đảo đó được rồi!
– Ai sao ta vậy; tại sao cô lại không?
Tôi nói tiếp:
– Mỗi người như một cỗ xe tự lái chạy trên một quãng đường dài nhất định là cùng đến một chỗ đích. Ví dụ quãng đường đó bình thường phải đi mất một trăm năm; nhưng nếu chạy nhanh thì thời gian đến đích càng ngắn, phải không?
Thấy Barbara cúi đầu trầm tư, từ đó tôi không nói gì về chuyện thuốc lá nữa. Một hôm nghe phong phanh sắp đến sinh nhật của tôi, Barbara nói:
– Em sẽ tặng anh một món quà sinh nhật.
Tôi nói đùa:
– Cô đừng tặng quà mong cho tôi chết sớm vì tôi không quen mừng sinh nhật của chính tôi bao giờ. Năm đầu tiên ở Mỹ, sau buổi lễ Chúa Nhật, cả hội viên nhà thờ United Methodist kéo xuống phòng sinh hoạt hát mừng sinh nhật, bắt tôi cắt bánh, và thổi nến làm tôi bật khóc khiến mọi người ngạc nhiên. Tôi quẹt nước mắt ấp úng nói, “Người Á Đông chúng tôi quan tâm ngày cúng giỗ hơn ngày ra đời!”
Barbara cười hì hì:
– Nhưng em đã có quà cho anh rồi.
Buổi chiều hôm đó, món quà sinh nhật duy nhất tặng tôi trong đời kéo cày ở các hãng trên đất Mỹ là một chiếc xe đồ chơi của trẻ em. Barbara làm tôi cảm động muốn khóc:
– Em không bao giờ quên câu chuyện anh kể “Mỗi người như một cỗ xe…”
MonQuaSinhNhat

Chiếc võng quan tài

Chiếc võng quan tài
Thái-Vinh

Xóm Thiện Trường nằm ven chân núi Hòn Vồ, ngó ra cánh đồng lúa bát ngát. Xóm chỉ có ba mươi sáu gia đình, nhưng hai dòng họ lớn nhất trong xóm đã cung cấp cho cả xã Phước An bốn ông xã trưởng. Họ Đỗ có anh em ông Xã Cựu và Xã Quyền; còn họ Nguyễn có anh em ông Xã Quý và Xã Dư. Thân phụ của ông Xã Cựu và Xã Quyền vẫn còn tại thế và từng giữ chức Hương Bộ trong làng, nên họ Đỗ được họ Nguyễn tôn kính vào hàng trưởng bối. Ông Hương Bộ thường mặc bộ đồ trắng đẹp như tiên; mỗi chiều ông dạo lên xóm trên, rồi trở xuống xóm dưới làm ra vẻ tập thể dục mà kỳ thật là kiểm soát các đám ruộng lúa. Thấy thằng bé nào lơ đễnh thả bò ăn lộn một cộng lúa nhà ông, ông dịu dàng gọi, “Cháu lại đây cho ông bảo?” Đứa nào chưa biết tính ông, lễ phép chạy lại thì bất ngờ từ trong ống tay áo của ông vụt ra ngọn roi như chớp xẹt xuống đầu! Năm ông Hương Bộ bước vào tuổi bát tuần (80 tuổi), gia đình chiều ý mừng tuổi thượng thọ cho ông một cỗ quan tài thật đẹp. Nhưng chờ đến tuổi đại thọ (90 tuổi) vẫn chưa thấy thần chết đến rước, ông cột cái hòm làm võng nằm dưới mái hiên nghe con Chín Dẹo ngâm thơ ru ông ngủ trưa. Chín Dẹo rất xinh gái, nhưng lỡ sinh ra bị tật một cánh tay; gia đình mặc cảm không cho đi học. Nó lớn hơn bọn thằng Thái vài ba tuổi, nhưng tự hạ mình ngang hàng kêu mày tao, nhập bọn chơi buôn bán, bẻ mía trộm, đánh lộn… Trong đám cháu, ông Hương Bộ thương con Chín Dẹo nhất. Ban ngày ông dạy nó học chữ; ban đêm trăng sáng, ông cháu dắt ra nghĩa địa Vườn Chung luyện võ. Một hôm bọn thằng Thái, cu Hòa, bốn Ninh, con Dung, con Lợt, và con Hoa đang chơi buôn bán dưới gốc me, bất chợt thấy Chín Dẹo, Thái kêu lớn:
– Ê, Chín Dẹo! Chơi làm vợ chồng không?
Chín Dẹo đỏ mặt, ấp úng:
– Tao… tao muốn chơi làm vợ chồng với anh Đức của mày thôi.
Thái trêu:
– Nhưng anh Đức thích con Mười rồi.
Mặt con Chín Dẹo cúi xuống lộ vẻ đau khổ:
– Mười là con riêng của bố tao đấy!
Thái còn đang ngơ ngác về chuyện bí mật của ông Xã Cựu có con riêng thì con Chín Dẹo nói to:
– Chơi trốn bắt đi?
Cả bọn kéo nhau về nhà Chín Dẹo. Đi ngang qua vườn rau của ông Xã Cựu, con Chín Dẹo làm ngơ để Thái nhổ trộm vài bụi khoai lang đem lùi tro nướng cho cả bọn ăn, rồi chơi trốn bắt. Trốn quanh quẩn bên giếng nước hay trong nhà bếp bị Chín Dẹo bắt mãi, Thái chạy tọt vào cánh cửa nhà trên đang khép, trốn vô căn phòng tối thui. Mò mẫm đụng cái thùng gỗ, nó nhảy phóc vào. Nghe một tiếng hự, nó giật mình biết gặp phải sự cố không ổn, bèn vội vàng nhảy ra. Lập tức một bóng trắng vụt bật dậy như lò xo; rồi tiếng vút vút đuổi theo Thái đập chát chát trúng cánh cửa. Kế tiếp nghe một tiếng hự lớn phía sau ngạch cửa; Thái đã chạy thoát về nhà.
Suốt hai ngày sau Thái không dám đi ngang qua nhà ông Xã Cựu; con Chín Dẹo cũng không ra chăn bò ở Vườn Chung. Đến ngày thứ ba, nghe tiếng kèn trống inh ỏi, Thái len lén đi theo xa xa coi đám ma ông Hương Bộ thấy Con Chín Dẹo sụt sùi khóc. Trời bỗng đổ mưa làm Ba Hạ con ông Xã Cựu và Ba Chưởng con ông Xã Quyền đang khiêng võng loạng choạng trượt chân té lật chiếc võng ma lăn ra ngõ. Kèn trống và tiếng khóc im bặt. Hốt nhiên có tiếng gõ lộp cộp gấp rút từ trong quan tài vọng ra làm cả đám khiếp đảm muốn bỏ chạy! Ông Xã Cựu và ông Xã Quyền vội hô hoán con cháu đem kềm búa nạy nắp hòm. Nắp vừa hé thì một bóng trắng đã hất tung nắp hòm vụt đứng dậy như quỷ nhập tràng phóng roi vun vút quất ra hai bên. Ông Hương Bộ đã hồi dương. Công lực tái sinh mạnh khủng khiếp làm mấy người cháu trai khoẻ mạnh xông vào đều bị đánh ngã lăn! Trong đám đông đột nhiên có tiếng kêu, “Nội ơi …”; con Chín Dẹo đã vọt tới, ôm cái bóng trắng khóc òa. Ông Hương Bộ bỏ roi, vuốt mái tóc cháu gái rồi ngoan ngoãn nằm xuống võng. Chiếc võng quan tài được khiêng trở vào nhà. Từ đó ông Hương Bộ bế môn ăn ngủ trong hòm, không tiếp xúc và nói năng với ai nữa. Mọi việc chăm sóc ông đều do một tay con Chín Dẹo đảm trách. Mỗi năm duy nhất một lần, đúng ngày mồng một Tết, ông Hương Bộ như cái xác chết biết đi từ trong hòm bước ra ngồi trước bàn thờ. Từ ông Xã Cựu, Xã Quyền xuống đến lũ cháu chắt và họ hàng tản mát khắp nơi tề tựu về từ đường họ Đỗ lần lượt lạy mừng tuổi, chúc tết, và thưa trình thành quả xuất sắc trong năm cũ; ví dụ như “Cháu là Năm Hữu, học sinh duy nhất trong xã đã thi đậu bằng Trung Học”. Ông Hương Bộ ngồi yên lặng như pho tượng thần tiên; chẳng biết ông có nghe không, nhưng thỉnh thoảng con Chín Dẹo đứng bên ông mấp máy môi như thể đang dùng công phu truyền âm nhập mật nhận lệnh ông truyền lại lời khen hay hỏi han. Khi nghe “Cháu là Bốn Hạnh và bé Hào chúc ông Cố luôn khoẻ mạnh sống lâu trăm tuổi …” thì ông Hương Bộ qua miệng con Chín Dẹo nghiêm nghị hỏi, “Mày đã lấy chồng đâu mà có con?” Điều nầy làm Bốn Hạnh xấu hổ và tủi thân bật khóc! Đến lượt con Công là đứa chắt nhỏ nhất chúc Tết ông xong thì mọi người cung kính cúi đầu chuẩn bị đi thụt lui ra cửa, thình lình ông Hương Bộ qua miệng con Chín Dẹo như quát vào tai, “Còn con Mười đâu?” Mọi người ngơ ngác không biết con Mười là ai thì ông Xã Cựu vội bước ra, “Thưa bố … Tết năm nay cháu Mười không về kịp vì mẹ cháu mới sinh cho cháu một đứa em gái.”
Gia đình Thái dọn nhà đi khỏi xóm Thiện Trường đã lâu. Ông Hương Bộ sống và chết trong chiếc võng quan tài thọ đúng một trăm tuổi. Anh Đức của Thái đã trải qua bốn đời vợ; còn Con Chín Dẹo không bao giờ lấy chồng trở thành bà già ăn trầu!

Hoài Niệm Lịch Sử

Hoài Niệm Lịch Sử
Thái-Vinh

“Ai về cõi Bắc cho ta gởi
Tất cả lòng thương giống Lạc-Hồng
Từ lúc mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng-Long…”

Mấy câu thơ trên vẫn thường theo ám ảnh trong tâm trí tôi từ mấy chục năm qua, mà mỗi lần chợt nhớ lại là lòng run lên. Tôi nghĩ, tác giả phải là một kẻ sĩ khẳng khái oai hùng với tấm lòng yêu mến dân tộc và tổ quốc ghê gớm lắm!
Ngày còn bé, tôi rất mê bộ môn Sử-Ký. Đám “Đất Dài” sau nhà là chỗ bọn tôi tập làm Đinh Bộ-Lĩnh mỗi buổi chiều. Bọn thằng Cu Hòa, Bốn Ninh, Con Dung…nghe lời tôi răm rắp, lấy lọ nồi vẽ mặt, bẻ cây, cỡi bò hò hét xáp trận đánh nhau kịch liệt…Chúng nào biết Đinh Bộ-Lĩnh là ai! Tôi phải lén cạy tiền trong hủ bình binh của em gái tôi ra mua bánh tráng ướt chiêu đãi Mười Hai Sứ Quân tôn hô tôi lên làm Vạn Thắng Vương!
Dạo ấy, tôi không hiểu vì sao Bà Triệu Ẩu đang hồi thắng thế, bỗng thấy quân Tàu cởi truồng ra trận, bà lại che mặt chạy; nhưng tôi vô cùng hả hê khi nhìn hình Thái tử Hoàng-Tháo của đoàn quân xâm lăng Nam Hán bị Ngô Quyền trói thúc ké trên sông Bạch-Đằng. Tôi mơ làm một tên lính vác giáo dài đi chân đất chạy theo Nguyên soái Lý Thường-Kiệt và Tôn Đản sang vây đánh Châu Khâm, Châu Ung, và Châu Liêm; lại bắt chước tập làm hai dũng tướng Yết Kiêu và Dã Tượng của Hưng Đạo Vương ngắt cộng hoa súng ngậm mồm lặn cút thật sâu dưới nước vào mỗi buổi trưa lũ học trò chúng tôi thủy chiến dậy sóng ầm vang ở Bầu Cạn…
Học lịch sử đến đâu, chúng tôi bắt chước đến đó. Mỗi lớp chia thành nhiều đội: đội Trưng Vương, đội Trần Quốc-Toản, đội Lam Sơn…thi đua học hành, làm vệ sinh, trồng rau, và tập thể thao rất vui vẻ. Trong suốt hai năm học cuối ở bậc Tiểu-Học, tôi được vinh dự chọn kéo Quốc-Kỳ cho toàn trường hát Quốc-Ca.
Mỗi độ Trung-Thu, trường chúng tôi tổ chức lửa trại, chơi trò đập ấm, đua xe đạp chậm, nấu chè thi, và nhất là làm kịch diễn lại những câu chuyện hào hùng của lịch sử dân tộc. Tôi đã xem các anh lớp lớn đóng kịch Nguyễn Trãi nghe tin cha là Nguyễn Phi-Khanh bị bắt, Nguyễn Trãi khóc theo lên tận cửa Nam-Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù; nhưng Nguyễn Phi Khanh bảo: “Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?” làm tôi cũng khóc oà!
Những năm sau nầy, chúng tôi đều có làm kịch, hay nhạc kịch lịch sử, như: Tiếng Trống Mê-Linh, Bóng Cờ lau, Hội Nghị Diên-Hồng, Đêm Lam-Sơn, Gò Đống-Đa…dựa theo các bản hùng ca bất hủ của Hoàng Quý, Lưu Hữu-Phước, Thanh-Thoại, Văn-Cao…Nhưng không hiểu vì sao, kể từ sau những trận đánh chớp nhoáng hào hùng của vua Quang-Trung ở Đống-Đa, Hà-Hồi, và Ngọc-Hồi làm tan nát 200 ngàn quân Thanh, thì giấc mơ học làm lịch sử trong trí óc non nớt của tôi ngày ấy không còn hăng hái nữa!

Children’s songs

Bài hát trẻ thơ
Thái-Vinh

Dân tộc Việt-Nam là một dân tộc giàu thơ nhạc. Ngay từ lúc vừa mới chào đời được cha mẹ ôm bế vào lòng, trẻ thơ Việt-Nam đã gần gụi gắn bó ngay với thơ nhạc qua những câu hát ru em. Những câu hát ru em đã có sẵn từ kho tàng rất phong phú tình cảm của ca dao, được thêm thắt những tiếng à ơi hay tình tính tinh…kéo dài ấm áp trầm buồn, nghe êm tai và thấm thía nhẹ nhàng dễ buồn ngủ:
À ơi, ơi…
Nam nhi đứng ở trên đời
Thông minh tài trí là người trần gian
Ngoan ngoan em thực là ngoan
Em thơ chị ẳm, em ngoan chị bồng
Bồng bồng bống bống bông bông
Lớn lên em phải ra công học hành
Tình tính tinh
Xinh ghê xinh gớm là xinh
Chớ nên học thói đa tình như ai

Hai đứa con thơ của chúng tôi trong hai năm đầu đời, đều được thổi vào tai, vào trí óc non nớt của chúng hàng ngàn câu hát ru ca dao, và biết bao câu thơ buồn đẹp trong thi ca Việt Nam, như Truyện Kiều:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường

Vì vậy, một em bé Việt-Nam dầu sinh ra ở nước ngoài, vẫn dễ dàng học tiếng mẹ đẻ, bởi vì trong tiềm thức của em đã vương vấn ít nhiều ngôn ngữ của dân tộc, chỉ chờ dịp được phát triển. Em bé Việt-Nam chẳng những được nghe hát ru để ngủ ngon, mà còn được tập hát, tập chơi, và tập phân biệt âm thanh ngay từ lúc còn nằm nôi chưa biết lật. Bài hát “Chi Chi Chành Chành” với những câu vô nghĩa lại là bài hát được áp dụng sớm nhất để huấn luyện tai mắt, và ngón tay bé nhỏ của em bé biết phối hợp nhịp nhàng theo bài hát, biết đưa tay ra, biết đặt tay vào lòng bàn tay mẹ, và biết rụt tay về cười ngặt nghẽo:
Chi Chi Chành Chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết trương
Ba vương, ngũ đế
Cấp kế đi tìm
Ù à ù ấp

Rồi lúc em bé vừa biết tập ngồi, ôm chặt tay mẹ, miệng đã biết bập bẹ theo bài “Kéo Cưa”:
Kéo cưa, lừa xẻ
Đứa nào khỏe về ăn cơm vua
Đứa nào thua về bú vú mẹ

Tôi không nhớ rõ, thuở lên năm lên sáu, ai đã dạy lũ con nít chúng tôi hát và chơi những trò, như “Đánh Đũa”:
Chuyền chuyền một, chộp lấy một
Chuyền chuyền hai, chộp lấy hai…
Qua cầu, hầu thẻ, bẻ bàn
Sang ngón, chọn tay
Ngay giờ, dời dã
Á mi ôi
Giống chi, trong yếm cô mi
Giở ra, anh coi
Chị ba mầy, đi cầu, té xuống ao
Chị ba tao, nhào xuống vũng
Tai nghe cái chủm
Núm cái thẻ, né cái thủm
Sang tay nầy, bắt tay kia
Nẻ nẻ một, một đôi
Nẻ nẻ hai, hai đôi…
Lòn kim xé chỉ

Hay “Hú Ve” trốn bắt:
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Thả tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo tiền như nước
Đổ mắm đổ muối
Đổ chuối hạt tiêu
Đổ niêu cứt gà
Đổ phải nhà nào
Nhà nấy phải chịu

Hay lúc đang chơi, bỗng trở mặt gay cấn, cần giải quyết tranh chấp một viên kẹo hay một hòn bi, cũng có bài hát:
Xù xì xụt xịt
Nốc mít lùi tro
Ăn no té địt

Và đôi lúc giận nhau, chẳng còn ai chơi với mình, cũng lên giọng hát trách móc:
Hồi nào làm bạn với tao
Bây giờ bỏ bạn, đi theo ăn mày
Ăn mày, không nói tao hay
Tao cho miếng giẻ vô trong mặt mày
Mặt mày như đít nồi bầu
Chạy qua chạy lại xách gầu rửa trôn

Tuổi thơ của chúng tôi lớn lên theo những bài hát và trò chơi buôn bán ngây thơ quanh quẩn dưới gốc me bên nhà. Vào những đêm trăng sáng, chúng tôi ra đồng coi tát nước, nghe trai gái hát ghẹo nhau những câu lạ tai, nhưng dễ nhớ:
Chớ chê em xấu em đen
Em như nước đục đánh phèn lại trong

hay
Nước sôi trong ấm trào ra
Thấy em mập mịa lân la tới nhà

Trăng ở miền quê tôi rất trong sáng và xinh đẹp vô cùng. Trăng làm chúng tôi bớt sợ ma; trăng soi sáng giúp dân long xay lúa, giã gạo, hát hò… Vào những đêm không trăng, thôn làng chìm đắm đìu hiu trong màn đen bí mật. Chúng tôi lén lút trong cửa sổ, lấm lét nhìn ánh lửa ma trơi, đỏ như máu bay lang thang trên ruộng lúa, sợ điếng người!
Những năm sau nầy phải xa quê, ánh trăng thành phố không đẹp và sáng bằng ánh trăng thời thơ ấu năm xưa. Tôi thực sự đã lớn lên và xa rời những bài hát trẻ thơ cũ. Đã bao nhiêu năm rồi, tôi vẫn còn nhớ mãi mấy câu hát của em bé nghèo xa quê trong một đêm trăng Trung Thu buồn:
Trung-Thu hai tiếng êm đềm quá
Chẳng biết lòng em nghĩ ngợi gì
Em nghĩ đêm nay trăng sáng tỏ
Cầm đèn, lũ trẻ rủ nhau thi…

Giấc Mơ Phù Đổng

PhuDongThienVuong

Giấc Mơ Phù Đổng
Thái-Vinh

Tào Tháo (155-220) một nhà chính trị, quân sự, và thi sĩ kiệt xuất thời Đông Hán bên Tàu. Ông kéo đại binh xuống Giang Nam, lập bộ tư lệnh phía bắc Trường Giang, đang tìm kế đưa binh qua sông thôn tính nước Ngô, thì hai hàng tướng Tiêu Xúc và Trương Nam, bộ hạ cũ của Viên Thiệu muốn lập công, xin cấp 20 chiến thuyền để tiến thẳng qua sông cướp cờ đoạt trống làm nhụt chí chiến đấu của quân địch, ông nói ngay, “Các ngươi đều sinh trưởng ở phương Bắc, e cỡi thuyền không tiện. Quân Giang Nam thì quen sống trên mặt nước, tập luyện đã tinh. Hai ngươi đừng đem tính mạng ra làm trò đùa.” Tuy nhiên ông đã chủ quan trong trận chiến gián điệp, và bị Châu Du lừa kế khoá thuyền đốt mấy chục vạn binh Tào trong trận Xích Bích. Bị đại bại, nhưng nhận xét của Tào Tháo về người miền Bắc giỏi ngựa và người miền Nam giỏi thuyền rất chính xác. Điều đó, một ngàn năm sau đã chứng minh, khi vó ngựa quân Mông Cổ gieo rắc kinh hoàng từ Á sang Âu, và chiếm toàn bộ nước Tàu thiết lập ra triều đại nhà Nguyên (1279-1368); và Mông Cổ đã đại bại qua ba cuộc xâm lăng Việt Nam năm 1258, 1285, và 1288 vì nhờ vua tôi đồng tâm và nhờ người Nam giỏi thuyền. Trận Bạch Đằng năm 1288 là trận thủy chiến lớn nhất và oanh liệt nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhưng vì bất hạnh nằm kề anh láng giềng khổng lồ dã man, nên dầu giỏi mà nước nhỏ vẫn bị đô hộ triền miên vì các cuộc xâm lăng đều do người ngựa từ phương Bắc dùng chiến thuật lấy thịt đè người. Địa hình Việt Nam hẹp, nhiều núi đồi và sông ngòi, thiếu thảo nguyên rộng để có chỗ cho những con ngựa nổi tiếng tung vó làm lừng danh chủ tướng như thời Tam Quốc (220-280) bên Tàu. Nào là Ngựa Xích Thố mầu đỏ rực như lửa ngày đi ngàn dặm của Quan Vân Trường; Ngựa Tuyệt Ảnh phi nhanh đến cái bóng cũng không đuổi kịp của Tào Tháo; Ngựa Đích Lư chở Lưu Bị chạy trốn vọt bay qua ngòi Đàn Khê; Ngựa Dạ Chiếu Ngọc Sư Tử mang chủ tướng Triệu Tử Long cùng ấu chúa A Đẩu xông xáo giữa trăm vạn quân Tào trong trận Đương Dương Trường Bản, Ngựa Ô Vân Đạp Tuyết đen tuyền dũng mãnh như chủ tướng khét tiếng Trương Phi… Những con ngựa lừng danh đó khi chủ tướng chết rồi thì chúng cũng không chịu để ai cỡi, ủ rũ bỏ ăn uống chết theo. Các danh tướng kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam, như Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ… từng đánh bại quân xâm lược phương Bắc, không nhờ những chiến mã như thời Tam Quốc, mà hoàn toàn nhờ võ nghệ siêu quần, mưu trí xuất chúng, và dân quân đồng lòng nhất chí chống giặc. Từ Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống Đông Hán năm 40-43, đến Bà Triệu nổi dậy chống Đông Ngô năm 248, cả ba vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam cỡi voi ra trận. Đến triều đại oai hùng Tây Sơn (1788-1802), nữ danh tướng Bùi Thị Xuân cũng cỡi voi, chỉ huy đội tượng binh đại phá quân Thanh vào đầu xuân năm Kỷ Dậu (1789). Việt Nam vẫn không có ngựa hay. Cái gì mình không có, mới mơ ước, đúng không? Người Việt Nam có niềm mơ ước thoát khỏi ách đô hộ của người Tàu qua ba thời đại Bắc thuộc kéo dài gần một ngàn năm. Trong tập truyện cổ “Lĩnh Nam Chích Quái” còn sót lại từ thời Lý, Trần của nước ta mà không rõ tác giả là ai, có thể do Trần Thế Pháp biên soạn vào cuối thế kỷ thứ 14. Trong đó có truyện Họ Hồng Bàng, truyện Trầu Cau, truyện Bánh Chưng, truyện Dưa Hấu, truyện Núi Tản Viên… là những sự tích thần thoại về nguồn gốc và sinh hoạt dân gian của dân tộc Viêt. Đặc biệt truyện Phù Đổng Thiên Vương là loại truyện kiếm hiệp đầu tiên trên thế giới mà bất cứ một đứa trẻ Việt Nam nào biết đọc cũng đã luyện qua:
“Đời Hùng Vương thứ 6 có đám giặc gọi là giặc Ân, hung mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh (nay là huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh), có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc. Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến đi mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng Thiên Vương.”
Tôi không cho truyện Phù Đổng Thiên Vương xảy ra vào đời vua Hùng Vương thứ 6 như đã ghi trong cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Vì thời vua Hùng thứ 6, nước ta rất hùng manh. Giặc Tàu còn ở mãi tít trên lưu vực sông Hoàng Hà, thì giặc Ân là giặc nào? Vả lại thời đó vua Hùng đã có con rể là Sơn Tinh tức thần núi Tản Viên tài phép như Tề Thiên Đại Thánh, hô biến thì núi cao đụng tới trời; vậy còn sợ ai? Phù Đổng Thiên Vương theo tôi là một vị anh hùng trong giấc mơ của mỗi người dân Việt trong thời kỳ Bắc thuộc (207 trước Công Nguyên cho đến năm 905). Giặc Ân là giặc Tàu, nhưng vị sợ Tàu đang cai trị, nên nói trại ra là giặc Ân; còn đứa bé không biết nói, không biết đi đó là một thiên tướng sẽ được Trời ban cho dân tộc Việt để đánh đuổi giặc đô hộ. Tướng giỏi cần ngựa hay. Người Nam cần giỏi ngựa để đánh bại phương Bắc. Truyện tuy thần thoại, nhưng con ngựa Phù Đổng của Việt Nam là con ngựa sắt được phát minh đầu tiên trên thế giới; mãi đến đầu thế kỷ 19, các nước Âu Châu mới bắt chước chế tạo được thành xe tăng! Nhưng giấc mơ của người dân Việt trong bất cứ mọi thời đại là trở thành Phù Đổng Thiên Vương.

Phu Dong Thien Vuong

My Dentist, Dr Ki Ngo

Răng với tóc là gốc con người
Tưởng nhớ Dr Ki Ngo, vị nha sĩ của tôi
Thái-Vinh

Người Mỹ rất đáng tự hào có hàm răng đẹp nhất thế giới; nhưng đó cũng là hàm răng yếu nhất thế giới! Tại vì đa số người Mỹ đều có bảo hiểm răng để cho nha sĩ xoi, xỉa, cạy, mài, giũa, niềng, đánh bóng hàm răng sạch sẽ mỗi năm hai lần. Vì có hàm răng đẹp nên sợ đồ ăn cứng. Món ăn thông dụng Hamburger, và Hot Dog của Mỹ kẹp với bánh mì mềm xèo, ăn rất ngán. Trái lại bánh mì Pháp (French baguette) giòn, thơm, ngon hơn nhiều vậy mà ít người Mỹ dám gặm. Một hôm có người chở đến cho một lô mía. Thấy tôi chạy đi tìm dao, người ấy chụp một cây mía, bẻ làm hai, cười khúc khích nói rằng “Ăn mía mà dùng dao xắt thịt thì đâu còn thú vị nữa? Mía phải xiết mới đã!” Nói xong, anh đưa khúc mía lên miệng dùng răng xiết (tước) vỏ mía ào ào còn nhanh hơn dao rọc.
Ngày còn bé ở Việt Nam, trẻ em chúng tôi không biết trên đời có nha sĩ. Ăn uống đã thiếu thốn, lại không biết giữ gìn vệ sinh, nên răng đứa nào cũng mọc bừa bãi, bị sâu răng, bị sún răng, bị thối mồm… Đang đi, bỗng nghe kêu “Bonjour Me xừ Hăng Rô!” Tưởng gọi Mr. Henro Tây nào, té ra bị chọc quê là me xừ hô răng! Rồi lại còn bị “Thưa anh rằng” tức là “Anh răng thừa”. Tiếng Việt tài tình ở cách nói lái như vậy đó! Mỗi khi bị nhức răng, phải dùng thuốc trị bá bịnh là dầu Nhị Thiên Đường xức; nhưng nếu bị nhức mãi thì cái răng ấy bị sâu ăn rồi, phải dùng thuốc đặc biệt của mấy thầy lang cỡi xe đạp chở tủ thuốc trị sâu răng đi bán dạo ở chợ. Thuốc gia truyền của các thầy xức lên chỗ răng sâu thì các con sâu răng say thuốc từ từ bò ra chết. Trông thầy chưng bày các hũ rượu thuốc ngâm các con sâu răng rất ghê rợn! Nhưng nếu dùng thuốc vẫn chưa chữa dứt nọc sâu răng thì thầy còn tuyệt chiêu nhổ răng ngay tại chợ, chỉ dùng kìm lắc nhè nhẹ là cái răng bị sâu vọt ra mà không cần chích hay bôi thuốc tê. Xong xuôi cho uống một gói Thần Công Tán bảo đảm chạy chơi với chúng bạn được ngay!
Hàm răng đối với trẻ em chúng tôi xưa kia không được hướng dẫn phải quan tâm và giữ gìn vệ sinh cho tốt; ví dụ như không được dùng răng tước mía, hay không được dùng gai xỉa răng… Thế mà câu tục ngữ “Cái răng cái tóc là gốc con người” được học trò chúng tôi học thuộc lòng như vẹt! Những đứa trẻ cùng lứa tuổi tôi ngày xưa ấy đến nay đã rụng răng, móm miệng trở thành me xừ Hăng Rết là Hết Răng! Chỉ có tôi được may mắn tiếp tục đi học cho đến khi vào Đại Học, tôi mới có nha sĩ. Nha sĩ của tôi là chị hàng xóm xinh đẹp vừa tốt nghiệp Đại Học Nha Khoa. Mấy cái răng sâu được chị trám bằng chì ngày ấy vẫn còn tốt; nhưng khi vào sa mạc, tôi lại giao lầm hàm răng cho các nha sĩ ở phòng răng gần nhà chăm sóc thì chỉ trong vòng nửa năm, hàm răng yếu dần và bị dụ khị bọc hai cái răng bạc. Ngay từ hôm bịt hai cái răng bạc ấy, hàm răng bắt đầu trục trặc. Càng trở lại phòng mạch, hai cái răng bạc càng bị mài thấp dần cho đến một ngày kia, phòng mạch đổi chủ. Hai cái răng bạc ấy đã bị nhiễm trùng! Tôi tức giận, quyết định từ đây cho đến ngày chỉ còn một cái răng, hay phải mang hàm răng giả, không bao giờ đi nha sĩ “ngoại quốc” nữa!
Nha sĩ mới của tôi từ đó là Dr Ki Ngo. Gặp nhau ở bữa tiệc từ thiện, Ki Ngo thường kêu chú và xưng con quá ư lễ phép; nhưng hôm đầu tiên Dr Ki Ngo trở thành vị nha sĩ trọn đời của tôi thì lại thân mật kêu tôi bằng anh và xưng em. Tôi cho xưng hô như vậy nghe dễ chịu hơn các cô phụ tá xinh đẹp không biết nói tiếng “anh”! Tôi không bao giờ thích các cô làm răng vì cứ bắt phải há mồm thật to làm méo mó mặt mày, lại bị đè xịt nước ngập cuống họng ngộp thở, khiến mình nằm ngửa ú ớ như người bệnh không dám rên la; thật không ra cái thể thống gì cả! Nếu tình cờ gặp nhau ngoài đường chào hỏi lại càng thêm ngao ngán vì người ta biết rõ cả răng vàng, răng bạc, lẫn răng chì trong mồm của mình thì còn thích thú nói năng gì? Tôi rất thích vị nha sĩ của tôi. Dr Ki Ngo tận tâm, tử tế, và nói năng hiền lành:
– Cái răng ấy bị nhiễm trùng nặng, để em cắt gân máu cho anh…
Nghe cắt gân, tôi giật mình:
– Vậy chết còn gì?
– Dạ, chỉ có cái răng ấy chết thôi, nhưng vẫn nhai thức ăn, lại giữ cho hàm răng được dính nhau nguyên vẹn…
Tôi vẫn biết các tế bào được tạo thành và mất đi trong thân thể muôn loài từng giây từng phút, nhưng không thấy được sự thay đổi quá tinh vi ấy. Bây giờ thì tôi cảm nhận được hai cái răng của tôi đã chết mà vẫn cứ sống với tôi. Nghĩa là tôi đang sống mà cũng như đang chết. Hôm nghe tin vị nha sĩ của tôi đột ngột qua đời, tôi bàng hoàng cảm thấy cả hàm răng như rơi rụng! Tôi không tin bác sĩ lại chết trước bệnh nhân. Từ đây tôi mất đi một người tin cậy mà tôi đã tự chọn làm nha sĩ trọn đời! Không biết các em có bao giờ nhớ nha sĩ của các em như tôi không? Đừng nhé! Tôi muốn các em luôn vui vẻ với hàm răng đẹp nhờ biết quan tâm giữ gìn, ăn uống lành mạnh, và siêng năng đánh răng. Mỗi lần cầm bàn chải hay sợi chỉ xỉa răng, hãy vui vẻ hát bài “Thằng Tí Sún” để nhắc người đang đứng trong gương rằng giữ gìn vệ sinh răng miệng là việc làm dễ dàng và cần thiết.


Thằng Tí Sún
Nhạc và lời: Hùng Lân

Ê! Cái thằng Tí sún Tí sún
Nhe cái răng nham nhở chổi cùn
Vì nó lười đánh răng sớm tối
Lại ăn kẹo suốt ngày không ngơi

Anh sún ơi! Này nghe chúng tôi:
Chăm đánh răng cười trông mới tươi
Răng với tóc là gốc con người
Răng có đẹp thì đời mới vui

Nào có khó gì việc đánh răng
Cầm bàn chải tựa như kéo đàn
Kem rất thơm ngọt đâu có ngán
Chỉ xoẹt xoẹt mấy cái là xong

King Midas and the Golden Touch

Ngón Tay Vàng
Thái-Vinh dịch từ truyện cổ tích “King Midas and the Golden Touch”

Vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, vua Midas cai trị xứ Phrygia (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) là một ông vua rất mê quý vàng. Vua Midas đã có nhiều vàng nhất thế giới rồi, nhưng ông nghĩ vẫn còn ít, nên chưa bao giờ mãn nguyện khi chưa có thêm vàng chất vào kho. Mỗi ngày Midas vào kho tàng châu báu một mình, ngồi mân mê đếm đi đếm lại từng cục vàng, và nghĩ thầm, “Một ngày kia, con gái ta sẽ là nàng công chúa giàu nhất thiên hạ!” Nhưng công chúa Marygold không thèm ngó ngàng đến những vật sáng chói vô tri giác trong kho châu báu của vua cha. Nàng chỉ yêu thích hoa, suốt ngày thơ thẩn một mình trong vườn thượng uyển trong khi vua cha bận tâm trân quý kho vàng, không thường kể chuyện hay đi bộ với con. Một ngày kia, trong lúc đang đếm vàng, chợt nghe có tiếng nói bí mật của một người đàn bà vô hình:
– Nhà vua thật có quá nhiều vàng!
Vua Midas tuy hoảng sợ, nhưng vẫn tham lam:
– Nhưng…nhưng ít ỏi bấy nhiêu đây thì có nghĩa gì với tất cả số vàng ở thề gian!
Giọng nói bí mật ngạc nhiên:
– Nhà vua vẫn chưa vừa lòng à?
Vua Midas thở dài:
– Đêm đêm ta vẫn thường mất ngủ suy nằm tính kế hoạch tìm thêm vàng. Ước gì ngón tay ta đụng vào thứ gì là thứ ấy hóa thành vàng thì mới mãn nguyện!
– Có thật nhà vua muốn như thế chăng?
– Còn điều gì sung sướng hơn bằng!
– Được rồi! Khi những tia sáng ngày mai xuyên qua cửa sổ thì nhà vua sẽ có ngón tay vàng!
Đến đây giọng nói bí mật kia im bặt, vua Midas dụi mắt thẩn thờ, “Nãy giờ ta đang nằm mơ chăng? Nếu ta có ngón tay vàng thì còn gì hạnh phúc hơn. Nhất định con gái ta sẽ là nàng công chúa giàu nhất thiên hạ!” Thế là suốt đêm vua Midas rạo rực không tài nào nhắm mắt được. Ông thức giấc nhiều lần đưa tay vén màn cửa sổ, nhưng chưa thấy thay đổi gì làm ông thở dài buồn bã, “Làm gì có chuyện ngón tay vàng hoang đường!” Nhưng khi những tia nắng ban mai đầu tiên xuyên qua cửa sổ và ngón tay vua Midas chạm vào màn cửa, thì lập tức màn cửa biến thành vàng. Ông sung sướng reo lên, “Thật rồi! Thật rồi!” Rồi vừa reo mừng vừa chạy quanh phòng đưa ngón tay chạm vào thứ gì là thứ ấy bỗng trở thành vàng sáng chói. Từ giường ngủ, gối ngủ, bàn ghế…cho đến đôi giày tất cả đều biến thành vàng. Nhìn ra vườn thượng uyển, vua Midas nghĩ thầm, “Con gái cưng của ta sẽ vui lòng biết bao nếu các loài hoa sớm nở tối tàn kia đều biến thành vàng!” Tức thì nhà vua chạy ngay ra vườn hoa đảo một vòng biến tất cả thành vàng. Việc nầy làm ông phí nhiều sức thấm mệt. Khi người hầu mang thức ăn vào, ông vội vã chụp lấy một trái đào đưa lên miệng cắn, thì trái đào đã hoá thành vàng cứng ngắc tự bao giờ. Buông trái đào ra, vua Midas lấy món gỏi cuốn, thì gỏi cuốn cũng biến thành vàng. Lấy nước uống, thì nước cũng đặc thành vàng. Vua Midas kinh hãi kêu, “Hỡi ơi, ta phải làm sao đây? Khi đang đói mà không thể ăn, đang khát mà không thể uống được vàng?”
Vừa lúc đó, cánh cửa sụp mở, Marygold cầm nhánh hoa bước vào khóc nức nở:
– Cha ra mà xem…tất cả vườn hoa hồng đã biến thành đá cứng xấu xí vô cùng…
– Hoa vàng đẹp đẽ hơn trước nhiều mà con không thích ư?
– Không! Không! Hoa đã chết không còn rung theo gió tỏa hương thơm được nữa. Con muốn hoa hồng sống cơ!
– Con đừng quan tâm! Hãy ăn uống cái đã!
Nhưng Marygold nhận thấy vua cha không ăn uống mà mặt lại có sắc buồn, nàng rất quan tâm:
– Việc gì đã làm cha buồn bã?
Nói xong, Marygold chạy lại ôm hôn cha. Vua Midas cảm động ve vuốt an ủi cô công chúa. Thốt nhiên ông kinh hãi rụng rời khi nhìn thấy khuôn mặt vô cùng xinh đẹp của Marygold đã biến thành vàng, đôi mắt đã mù và đôi tay nhỏ bé không còn ôm chặt ông được nữa…Nàng công chúa ngây thơ xinh xắn đã biến thành tượng đá vàng!
Vua Midas gục đầu khóc thổn thức.
– Nhà vua không vui sướng ư?
Nghe lại giọng nói bí mật phát ra trong kho tàng hôm qua làm vua Midas bàng hoàng:
– Ta…ta là người bất hạnh nhất thế gian!
– Nhà vua đã có ngón tay vàng mà vẫn còn thấy chưa đủ à?
Vua Midas xấu hổ im lặng.
– Nhà vua thích ăn uống, hay thích cầm vàng?
Vua Midas không thể nào trả lời được.
– Ô, vua Midas! Thế ngài muốn chọn tượng vàng kia, hay chọn cô con gái xinh xắn biết chạy nhảy, reo cười, và biết yêu mến cha?
Vua Midas gào khóc:
– Hãy trả lại con ta! Ta chịu mất tất cả kho vàng!
– Nhà vua thật sáng suốt hơn hôm qua. Hãy ra sau vườn thượng uyển, nhảy xuống sông tắm rửa ngón tay vàng, rồi lấy nước rảy lên tất cả vật gì đã hóa vàng để lấy lại hình dáng cũ!
Vua Midas lập tức chạy phóng xuống sông tắm rửa và múc nước rảy lên mọi thứ vàng giả tạo.
Marygold mở choàng đôi mắt kinh ngạc reo mừng:
– Cha xem kìa, vườn hoa hồng đã sống lại!
Vua Midas sung sướng ôm ôm chặt con và cảm thấy mình là kẻ hạnh phúc nhất thế gian.

Little Fellow Bom

Hoạt cảnh Thằng Bờm
Dân ca Việt Nam
Nhạc: Đào Duy Anh
Mộng-Lan (giới thiệu), Thái-Dương (thằng Bờm), Văn-Tuuyến (phú ông), Thái-Vinh & Kim-Tuyến (kể chuyện)
Hát mừng Chúa Giáng Sinh năm 1993 tại nhà thờ Christ Roi, Nouméa, Nouvelle Calédonie

Thằng Bờm
(Dân ca Việt Nam)
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười

Little Fellow Bờm
(Translated by Lưu Thuỷ)
Little fellow Bom has an areca spathe fan
Phu ong begs him to exchange it for three oxen and nine buffalos
Bom says that Bom does not want to take them
Phu ong begs him to exchange it for a dozen fish
Bom says that Bom does not want to take them
Phu ong begs him to exchange it for a raft of ironwood
Bom says that Bom does not want to take it
Phu ong begs him to exchange it for a couple of birds
Bom says that Bom does not want to take them
Phu ong begs him to exchange it for a handfull of sticky rice
Bom accepts at once with a happy smile

Thing that worries Grandparents

Nỗi băn khoăn của ông bà
(Đăng trong nguyệt san Bút Tre số tháng 5, 2014)
Thái-Vinh

Mỗi lần ông bà đến thăm, thằng cháu ngoại nghe gọi, “Cu Tí ơi”, nó mừng lắm, chạy ra mở cửa; nhưng chỉ kêu được một tiếng “Ngoái”, rồi tịt ngòi! Nghe bà ngoại nói tiếng Việt với mẹ nó như bắp rang mà không hiểu người lớn nói gì, nó cảm thấy tức tối trong bụng! Nó có biết đâu là lần nào bà ngoại của nó cũng hỏi, “Sao không đưa con đi học lớp tiếng Việt ở Trung Tâm Việt Ngữ Tiếng Mẹ?” Nếu nó biết nói được tiếng mẹ, nó sẽ trả lời, “Mẹ đã đưa cháu đến đó một lần rồi. Nhưng mẹ bận lắm; còn ba cháu đi lính ít khi được về nhà!”
Nếu không có ông bà, đứa bé có cần biết nói tiếng mẹ không?
Cần lắm chứ? Vì biết thêm một thứ tiếng, khi giao thiệp với người nói thứ tiếng đó sẽ dễ cảm thông hơn, lại hiểu được văn hoá cùng cách suy nghĩ của họ hơn. Chưa kể tới điều lợi thực tế về việc học hành, làm việc, du lịch… Khuyết điểm của người nói tiếng Anh là họ thấy tiếng Anh được khắp thế giới sử dụng như một thứ ngôn ngữ tiêu chuẩn, nên lơ là học thêm ngoại ngữ. Nếu cần, họ có thể kiếm một người làm thông dịch; nhưng họ quên là người nói được tiếng Anh với họ đã biết nói một thứ tiếng khác; nghĩa là đã hiểu hơn họ rồi!
Biết nói một thứ tiếng chưa đủ!
Nelson Mandela (1918-2013), cố Tổng thống Nam Phi đã để lại hậu thế lời suy gẫm nầy:
Nếu bạn nói thứ tiếng mà người đó hiểu, lời nói đó đi vào đầu họ. Nếu bạn nói thứ tiếng của ngưới đó, lời nói đó đi vào tim họ.
(If you talk to a man in a language he understands, that goes to his head. If you talk to him in his language, that goes to his heart)
Một đứa bé chưa tới 12 tuổi, có thể học nói được nhiều thứ tiếng dễ dàng. Thế thì tại sao, không dạy và luôn luôn nói tiếng mẹ với con trong sinh hoạt gia đình hàng ngày?
Một bà mẹ đã trả lời, “Có chứ; nhưng thấy chậm chạp, mất thì giờ quá; nói quách tiếng Anh với nó cho khoẻ!”
Cũng bà mẹ đó, mấy năm sau khoe, “Con bé bỗng dưng đòi chở đi ghi tên học tiếng Việt ở Trung Tâm Việt Ngữ Tiếng Mẹ!”
Ông bà đã làm xong bổn phận nuôi con và dạy con nên người (dĩ nhiên đã dạy con biết nói tiếng mẹ). Khi về già, nếu có cháu, ông bà sẽ hết băn khoăn khi nghe cháu nói được với ông bà bằng tiếng mẹ. Vậy không gì hay bằng con cái nên cố gắng ở gần cha mẹ để được ông bà có nhiều thì giờ rảnh rỗi, chơi và nói với cháu bằng tiếng mẹ. Cho dù chưa được về hưu, vẫn có thể hy sinh cho cháu như ông bà ngoại nầy:
Mới 8 giờ tối, ông đã xin phép rút vô buồng ngủ để mai đi làm sớm. Khách cũng đứng dậy định cáo từ ra về, nhưng ông vội vàng nói:
– Mời các anh chị ngồi lại dùng cơm vì bả làm ca chiều.
– Hình như lúc trước anh chị đi làm cùng giờ mà?
– Dạo nầy chúng tôi phải chia nhau có mặt ở nhà để giữ cháu.
– Hèn chi hai thằng cháu ngoại của anh chị nói tiếng Việt giỏi quá!