Ngày 30 tháng 4

Ngày 30 tháng 4 

Thái-Vinh 

30 tháng 4 năm nay đánh dấu ngày Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ đúng 43 năm. Ngày này đối với người Việt Nam tị nạn Cộng Sản trên khắp thế giới không bao giờ có tên gọi thống nhất, nào là: 
Ngày Mất Nước 
Ngày Quốc Hận 
Ngày Tưởng Niệm 30 Tháng 4 
Ngày Ba Mươi Thứ Tang 
Tháng 4 Đen 
Ngày Bắt Đầu Cuộc Hành Trình Tìm Tự Do 
Ngày Vượt Biên, Vượt Biển, Con Lai, Đoàn Tụ, HO… 
Nhưng ngày này, dù muốn dù không ở Việt Nam lại là ngày toàn quốc nghỉ lễ “Giải Phóng Miền Nam” hay “Thống Nhất Tổ Quốc”. 
Ngày 30 tháng 4 năm nay nhằm ngày thứ Hai; tôi đi làm, phải tiếp xúc với khách hàng, nhưng không giấu được nỗi buồn vì là ngày tôi đã leo lên thuyền Trường Xuân bỏ nước ra đi. Trong các tên gọi cho ngày 30 tháng 4 nói trên, đối với tôi có lẽ đúng là “Ngày Mất Nước” vì gần 4 ngàn người trên thuyền cũng như tôi đã biết khát vọng của con người bị mất nước trong 5 ngày trôi giạt giữa biển khơi! Thuyền chìm, nhưng may mắn được tàu buôn Clara Maersk của Đan Mạch cứu đưa vào Hồng Kông tị nạn chờ nước thứ ba ra tay nghĩa hiệp nhận đem về nuôi. Trong những ngày chờ đợi vô vị ở Hồng Kông, tôi thường leo lên mái tôn của trại tị nạn Hartcourt, ngồi trông áng mây bay về cố xứ và tự hỏi “Tại sao mình mất nước?” Không có câu trả lời! Tức giận, tôi chửi Cộng Sản, chửi Mỹ, chửi ông Thiệu chán, rồi quay lại tự chửi “Mình làm mất nước; chứ tại ai?” 
Đúng là cái gì mình có mà không giữ, đến khi mất lại hối tiếc và đổ hô tại không ai giúp mình? 
Đó là lý luận của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cáo buộc đồng minh Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà trong bài diễn văn từ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 1975. Ông Thiệu là người hiểu rõ hơn ai hết rằng người bạn đồng minh ấy đã muốn rút lui khỏi Miền Nam Việt Nam từ lâu; nhưng ông vẫn nhất định không tin Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà qua lời hứa riêng của Tổng Thống Nixon! 
Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 bởi 4 bên gồm Mỹ, Việt Nam Cộng Hoà, Cộng Sản Miền Bắc, và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là giấy khai tử Việt Nam Cộng Hoà vì những điều khoản quan trọng trong hiệp định ấy hoàn toàn do Cộng Sản Miền Bắc và Mỹ họp kín đồng ý để Mỹ rút lui trong danh dự và xoá sổ Việt Nam Cộng Hoà. 
Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết quân trong vòng 60 ngày, khoảng 150 ngàn quân Cộng Sản Bắc Việt được phép ở lại Miền Nam tại những vùng họ đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Mỹ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại Miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Mỹ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này! 
Tại sao Cộng Sản Miền Bắc là kẻ phát động cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam không rút quân về Bắc mà lại được phép ở lại những vùng họ đã chiếm đoạt để làm gì? 
Nixon là chính trị gia tồi! Trong cuộc tái tranh cử Tổng Thống Mỹ vào ngày 7 tháng 11 năm 1972, dù chưa chấm dứt chiến tranh Việt Nam, ông vẫn dễ dàng đánh bại đối thủ George McGovern; thế mà ông lại đồng loã trong vụ đặt máy nghe lén trong trụ sở Watergate của Đảng Dân Chủ! Nixon từ chức vào ngày 8 tháng 8 năm 1974. Cho dù không xảy ra vụ Watergate thì Tổng Thống Nixon cũng bó tay vì sau đó Quốc Hội Mỹ đã thông qua đạo luật “Foreign Assistance Act of 1974” loại bỏ viện trợ và tài trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa. 
Gerald Ford lên kế vị Tổng Thống không làm được gì để cứu vãn Việt Nam Cộng Hoà! Lần đầu tiên trong lịch sử, nước Mỹ đã thua trận vì sức chịu đựng của dân chúng Mỹ giới hạn, thêm vào đó giới truyền thông thiên tả gây ảnh hưởng xấu cho cuộc chiến bảo vệ tự do, và phong trào phản chiến phát động tại các trường đại học biểu tình liên miên chống chiến tranh Việt Nam. 
Miền Nam chống Cộng Sản nhờ vào viện trợ Mỹ, nên khi Quốc Hội Mỹ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975 thì khó khăn về kinh tế đã bắt đầu. Thêm vào đó, các phong trào phản chiến hay đối lập chính trị do Cộng Sản giật dây hoặc có cảm tình với Cộng Sản liên tục quấy phá mạnh mẽ gây xáo trộn xã hội từng ngày. Cho dù đã có gần một triệu đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp định Genève năm 1954 lánh nạn Cộng Sản, nhưng đa số quần chúng, ngay cả giới trí thức vẫn không thấu triệt chủ nghĩa Cộng Sản là gì nên dễ bị tuyên truyền lôi cuốn vào phong trào “Chống Mỹ, Ngụy cứu nước”! Miền Nam muốn chống Cộng, phải độc tài; nhưng Miền Nam đã phù phiếm hai chữ Tự Do! 
Trong khi đó, đối thủ là Cộng Sản Miền Bắc quyết tâm và chỉ có một quyết tâm là xâm chiếm Miền Nam dù phải hy sinh nhiều thế hệ! 
Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Hải quân Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hoà. Hạm đội 7 của Mỹ làm ngơ! 
Cộng Sản Miền Bắc thăm dò phản ứng của Mỹ với “Chiến dịch Đường 14” chiếm tỉnh Phước Long ngày 6 tháng 1 năm 1975. Mỹ theo dõi, nhưng không phản ứng! 
Được Mỹ làm lơ, Cộng Sản Miền Bắc sung sướng phát động Chiến dịch Tây Nguyên ngày 4 tháng 3 năm 1975 đánh Buôn Mê Thuột. Sau khi Buôn Mê Thuột thất thủ ngày 11 tháng 3 năm 1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nguyên là Trung Tướng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã quyết định liều lĩnh điên rồ ra lệnh cấp tốc triệt thoái Cao Nguyên về giữ đồng bằng vùng duyên hải. Cuộc rút lui hỗn loạn kinh hoàng trên tỉnh lộ 7B từ Pleiku về Tuy Hoà khiến quân đội hùng mạnh đứng hàng thứ tư trên thế giới không đánh mà tan rã và kéo theo các thất thủ dây chuyền nhanh chóng. Chỉ trong vòng 55 ngày từ khi Cộng Sản phát động Chiến dịch Tây Nguyên, toàn bộ nước Việt Nam Cộng Hoà bị sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975! 
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là vị tướng hèn nhát không dám chiến đấu hay tự sát mà từ chức rồi bỏ trốn, giao lại nhiệm vụ không còn gì để làm cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương ngoài việc bàn cãi với Quốc Hội làm thủ tục không “vi hiến” bàn giao chức Tổng Thống lúc 4 giờ 45 phút buổi chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975 cho Dương Văn Minh (một cựu tướng lãnh từng làm đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 và ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm) để đàm phán với Cộng Sản. Nhưng Tân Tổng Thống Dương Văn Minh có tài cán gì đâu ngoài tài hết làm tay sai cho Pháp, cho Mỹ, đến các thầy tu của khối Phật Giáo Án Quang đã tuyên bố đầu hàng Cộng Sản vô điều kiện vào lúc 11 giờ 30 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975! 
Chiến Tranh Việt Nam (1955-1975) do Miền Bắc khởi xướng với tham vọng chiếm trọn đất nước để cai trị theo chủ nghĩa Cộng Sản. Cộng Sản Miền Bắc đã đạt được giấc mộng ấy sau hai mươi năm lường gạt gây chiến tranh “Chống Mỹ Cứu Nước” không cần thiết, đã gieo tang tóc đau thương cho từng người, từng gia đình, và giết hại hàng triệu đồng bào! Cuộc chiến thắng vĩ đại của Cộng Sản Miền Bắc không phải “giải phóng Miền Nam” mà thật sự giải phóng người dân Miền Bắc để bắt kịp Miền Nam về mọi mặt! Phan Huy, một thi sĩ nổi tiếng ở Miền Bắc trong bài thơ “Cảm tạ Miền Nam” đã viết: 
Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói 
Với Miền Nam, miền đất nước điêu linh 
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình 
Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật 
Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất” 
Tôi đã vào một xứ sở thần tiên 
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền 
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc 
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục 
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em 
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền 
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống 
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động 
Đất nước, con người, dân chủ tự do 
Tôi đã khóc ròng, đứng giữa thủ đô 
Giận đảng, giận đoàn, bao năm phỉnh gạt 
Sinh ra, lớn lên, sau bức màn sắt 
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu” 
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều 
Con người nói năng như là chim vẹt 
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng 
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh 
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mác Lê nin 
Tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đường vô sản” 
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng 
Xã hội thụt lùi, người kéo thay trâu 
Cuộc sống xuống thang, tính bằng tem phiếu 
Thân phận con người chẳng khác bèo dâu 
Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối 
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh 
Biết được nhân quyền, tự do, dân chủ 
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình 
Cảm tạ Miền Nam soi đường chỉ lối 
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng 
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên 
Chớ không phải Các Mác và Lê Nin ngoại tộc 
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai phóng 
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu 
Mà trước đây tôi có biết gì đâu 
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ 
Cảm tạ Miền Nam một thời làm chiến sĩ 
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng 
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỉ 
Dù không thành công cũng đã thành nhân 
Làm thế nào để Miền Bắc bắt kịp Miền Nam? Đó là nhờ vào một chính sách chỉ có Cộng Sản với nghệ thuật cai trị tàn bạo mới đủ nhẫn tâm thực hiện: Phải làm cho Miền Nam kiệt quệ! 
Chế độ cải tạo bắt hàng trăm ngàn người Miền Nam cộng tác với chế độ Việt Nam Cộng Hoà là “những kẻ có nợ máu với nhân dân” học tập cải tạo và lao động với những điều kiện vô cùng khắc nghiệt lưu đày lâu dài trong trại tù bị đói khát và bệnh tật hành hạ để được hưởng chế độ khoan hồng “nhân đạo” của đảng và nhà nước! 
Người đi tù cải tạo biệt xứ; người ở lại bị kỳ thị ngược đãi xua đuổi đi vùng kinh tế mới, phải ăn độn bằng thực phẩm dành cho gia súc… Người dân Miền Nam nhanh chóng bị kiệt quệ từ tinh thần đến thể xác phải liều chết vượt biên, vượt biển ra đi. “Nếu được tự do, ngay cả cột đèn cũng bỏ nước ra đi!” 
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đối với người dân Miền Nam thật sự là Ngày Tủi Nhục! 
Đã 43 năm tổ quốc thống nhất mà người dân vẫn sống trong sợ hãi, và đang giãy chết vì bị đầu độc từ trên rừng dưới biển, từ thức ăn, nước uống, cho đến tư tưởng phải “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để “Đảng Cộng Sản Vinh Quang Muôn Năm”! Người Việt Nam thật sự yêu nước, có ai dám nghĩ tới điều “Vinh Quang Muôn Năm” đó? 
Tôi không ở lại để chứng kiến một điều thay đổi nào mà Cộng Sản đã thật sự đem lại hạnh phúc cho người dân Miền Nam. Tôi hỏi câu này trong một buổi họp mặt vui vẻ với các bạn đồng môn cùng trường trước ngày chưa “Mất Nước”. Mọi người suy nghĩ, nhưng vẫn không tìm được câu trả lời thoả đáng. Cuối cùng một người bực mình phát biểu: 
– Người đặt câu hỏi khó đó có câu trả lời không? 
Tôi nói ngay: 
– Sao lại không! Người dân Miền Nam đã có một giai đoạn cười sảng khoái ngay sau khi đất nước thống nhất. Đó là giai đoạn chỉ còn biết cười để bớt oán buồn! Văn chương bình dân như hát vè, ca dao, tục ngữ, nhạc chế, chuyện tiếu lâm… được phát triển tột bực. Thử nhắc lại vài câu: 

Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý 
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do 

XHCN là Xếp Hàng Cả Ngày 

Đôi dép râu làm rầu tuổi trẻ 
Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai 

Ở với Hồ Chí Minh 
Cây đinh phải đăng ký 
Trái bí cũng sắp hàng 
Khoai lang cần tem phiếu 
Thuốc điếu phải mua bông 
Lấy chồng nên cai đẻ 
Bán lẻ chạy công an 
Lang thang đi cải tạo 
Hết gạo ăn bo bo 
Học trò không có tập 
Độc Lập với Tự Do 
Nằm co mà Hạnh Phúc! 

Tôi đéo cần giải phóng quê tôi 
Tôi đéo muốn treo hình ông Hồ 
Tôi đéo thèm chủ nghĩa Mác Lê Nin 
Tôi chỉ muốn sống như thời ông Kỳ..

Bàn Môn Điếm (Panmunjeom)

Hàn Quốc Du Ký Tập 4
Bàn Môn Điếm (Panmunjeom)

Thái-Thanh, Mộng-Lan & Thái-Vinh 

Hàn Quốc Du Ký không thể kết thúc nếu chưa đi thăm di tích của một thời chiến tranh tưởng chừng thế chiến thứ ba có thể bùng nổ làm xoá tan bán đảo Triều Tiên. 

Cả xứ Hàn đang mưa. Mưa làm chúng tôi thèm món ăn Việt Nam. Tôi chợt nhớ trên lầu ba của một toà cao ốc gần gác trọ nơi Thái-Thanh cư ngụ ở Nowon-gu có bảng hiệu “PHO BIEN” nho nhỏ đèn vàng. Từ lâu phở đã không còn là món ăn riêng của người Việt Nam. Từ hàng trăm năm trước người Cao Ly đã ăn phở vì ở đâu có người Việt tị nạn là có phở. Người Việt Nam đầu tiên đến Cao Ly tị nạn năm 1150 là Đô đốc Thủy quân Kiến Hải Vương Lý Dương Côn (con nuôi vua Lý Nhân Tông) đã cùng tông tộc dong thuyền sang Cao Ly để tránh bị giết trong cuộc tranh giành ngôi báu. Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn (Lee Ui-min) dưới triều vua Minh Tông (Myeongjong 1170-1179) nước Cao Ly chính là hậu duệ của Lý Dương Côn. Năm 2003 đài truyền hình KBS1 của Hàn Quốc trình chiếu bộ phim The Age of Warriors (Mooninshidae) kéo dài hơn 1 năm. Phim có giới thiệu Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn là dòng dõi hoàng tộc nhà Lý nước Đại Viêt. 
Người tị nạn thứ hai ở Cao Ly là Hoàng tử Lý Long Tường. Năm 1225 Trần Thủ Độ chuyên quyền lật đổ nhà Lý bằng cuộc hôn nhân cưỡng ép giữa hai đứa con nít 7 tuổi là cháu Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng, vị nữ hoàng của triều Lý cũng là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam. Sau đó Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng trở thành vua Trần Thái Tông, lại còn làm bẫy sập chôn sống gần hết toàn bộ tông thất nhà Lý đang làm lễ cúng tổ tiên, và bắt những người sống sót phải đổi sang họ Nguyễn hay cải họ khác. Hoàng tử Lý Long Tường mang vương miện, long bào, và thanh thượng phương bảo kiếm của vua Lý Thái Tổ cùng 6 ngàn tướng sĩ và gia nhân lên ba hạm đội từ cửa Thần Phù ở Thanh Hóa chạy ra biển Đông. Sau nhiều tháng lênh đênh trên biển thuyền ghé vào Đài Loan, rồi lại dong buồm đi tiếp. Không biết ông muốn đi đến đâu; nhưng cuối cùng bị bão táp đánh trôi giạt vào Trấn Sơn (Chen-san) bên bờ biển phía tây nước Cao Ly thuộc Bắc Hàn ngày nay. Ông được vua Cao Tông (Kojong) rất kính trọng. Khi quân Mông Cổ vượt Hoàng Hải và đường bộ xâm lăng Cao Ly hai lần vào năm 1232 và năm 1253, ông lãnh đạo quân dân chống trả đánh lui quân Mông. Sau hai chiến tích oanh liệt đó, vua Cao Ly đổi tên Trấn Sơn (Chen-san) thành Hoa Sơn (Hwa-san) và phong ông làm Hoa Sơn Tướng Quân (Hwa-san Sanggun). Lúc ở Hoa Sơn, ông thường leo lên đỉnh núi Kwang-dea trông về phương nam khóc. Nơi ông ngồi khóc đó tục gọi là Đỉnh Vọng Quốc (Peak of Nostalgia). Trong chuyến công du Việt Nam Cộng Hoà ngày 6 tháng 11 năm 1958, Lý Thừa Vãn (Rhee Syngman hay Lee Seungman) đương kim Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc đã thừa nhận ông là hậu duệ đời thứ 25 của Hoàng tử Lý Long Tường. 
Kể vòng vo như thế mới dám kết luận rằng người nước Cao Ly (sau nầy là nước Triều Tiên) chắc chắn đã ăn phở từ lâu. Bây giờ thì đã có nhiều gái Việt về làm dâu bên xứ Hàn, mà người phụ nữ Việt nào đi đâu cũng mang quê hương là món phở đi theo. Không biết hiện nay đã có bao nhiêu quán phở ở Hàn Quốc, nhưng PHO BIEN ở Nowon-gu là quán phở duy nhất mà chúng tôi đã thưởng thức trong hành trình Hàn Quốc Du Ký. Quán có hai nam nữ tiếp viên trẻ đẹp. Tuy cả hai không biết nói tiếng Việt, nhưng gọi món ăn bằng tiếng Việt đều hiểu ngay. Bên trong thấp thoáng bóng nữ đầu bếp, nhưng chúng tôi nói chuyện rôm rã toàn tiếng Việt mà không thấy người ấy phản ứng gì. Tất cả các món ăn Việt ở Phở Biển đều được chế biến theo kiểu ăn Hàn Quốc trông rất xinh xắn. Không có bát phở mà chỉ có chén phở; không có bánh xèo đúc nổi phồng to bằng cái đĩa mà chỉ có những lát bánh xèo mỏng cắt vừa miệng ăn trông giống món Taco của người bạn Mễ. Mùi nước mắm và mùi cánh hồi trong chén phở ở một quán ăn nơi xứ Hàn bốc lên thơm phức. Ôi, mùi vị quê hương thật đáng mê làm sao! 
Thái-Thanh lại đề nghị rất hợp lý: 
– Bố nên uống một lon bia? 
Tôi khoái chí kêu: 
– Cho một chai 33? 
– Không có bia 33; nhưng có bia Hà Nội và bia Sài Gòn. 
– Trời ơi, còn bày đặt lựa chọn! Cho bia Sài Gòn đi? 
Chỉ còn thêm một ngày và một đêm nữa là phải xa xứ Hàn. Đã được ăn phở mà thấy tôi vẫn còn bứt rứt, Thái-Thanh trấn an: 
– Ngày mai con được nghỉ lễ… 
– Ủa, lễ gì vậy? 
– Lễ toàn quốc nghỉ làm để đi bầu quốc hội. 
– Chà, cái nầy Hàn Quốc hay hơn Mỹ rồi đó! 
– Mình sẽ đi thăm Panmunjeom. 
Dân tộc Triều Tiên là một trong những dân tộc chịu nhiều bất hạnh nhất thế giới vì lỡ sinh ra nằm bên anh hai Nhật và anh ba Tàu nên bị hai anh thay phiên nhau đô hộ triền miên. Sau thế chiến thứ hai, toàn bộ bán đảo Triều Tiên có cơ hội được độc lập và thống nhất như bao nhiêu nước nhược tiểu khác; nhưng oái oăm và quái gở thay, chính Tổng thống Harry Truman, người bạn Mỹ lãnh đạo khối thế giới tự do đã có quyết định ghê gớm thả hai quả bom nguyên tử xuống đất Nhật lại nhũn nhặn với Stalin, lãnh tụ khối cộng sản lấy vĩ tuyến 38 chia đôi bán đảo Triều Tiên cho Nga dẫn Kim Nhật Thành (Kim Il Sung) vào giải giới quân Nhật đầu hàng ở miền Bắc (Nhật có bị Nga đánh bại đâu mà đầu hàng Nga?) và Mỹ giải giới quân Nhật đầu hàng ở miền Nam. Sau đó mỗi anh lại tạm cai quản mỗi miền 3 năm trong lúc chờ đợi một cuộc tổng tuyển cử thống nhất hai miền. Nhưng tổng tuyển cử thế nào được? Tháng 8 năm 1948 Miền Nam thành lập chính phủ Đại Hàn Dân Quốc; tháng 9 năm đó Miền Bắc cũng có ngay chính phủ Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên! 
Sự thất bại của cuộc tổng tuyển cử thống nhất năm 1948 làm hai miền càng chia rẽ sâu xa hơn. Tuy nhiên việc đàm phán thống nhất hai miền vẫn tiếp tục cho đến cuối năm 1949 khi Mao Trạch Đông làm chủ được toàn bộ nước Tàu láng giềng vĩ đại của đồng chí Kim Nhật Thành thì cơ hội thống nhất bán đảo Triều Tiên trong hoà bình chỉ còn một cách duy nhất là Miền Nam phải đầu hàng Miền Bắc. Đúng 4:30 sáng ngày 25 tháng 6 năm 1950 Bắc Hàn tung 7 sư đoàn tinh nhuệ và xe tăng tràn qua vĩ tuyến 38 chớp nhoáng chiếm Seoul. Mỹ khẩn cấp triệu tập Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Nga tẩy chay vì không thừa nhận ghế hội viên thường trực của nước Tàu vẫn do Đài Loan đại diện dù Tưởng Giới Thạch đã bỏ chạy khỏi Hoa Lục; nhưng Nga lại không phủ quyết giải pháp Liên Hiệp Quốc lên án hành động xâm lăng và kêu gọi Bắc Hàn phải rút quân ngay lập tức. Nhưng rút thế nào được, hở anh Mỹ ngây thơ? Kim Nhật Thành đã tuyên bố sẽ giải phóng toàn bộ Nam Hàn trong 3 tuần! Nay Bắc Quân mạnh như thế chẻ tre đánh đâu thắng đó, đã chiếm gần hết phương Nam đang dồn quân Liên Hiệp Quốc và Nam Hàn vào vòng đai Busan bé tẻo teo ở cực đông nam Triều Tiên đổ xuống biển! Lúc đó không biết Kim Nhật Thành tức vua Kim Thế Tổ vĩ đại mở đầu triều đại nhà Kim đang say men chiến thắng ở đâu? Mỹ phản công không phải ở ngay mặt trận Busan. Danh tướng Douglas MacArthur, con sư tử trong chiến dịch Thái Bình Dương thời Đệ Nhị Thế Chiến đã bí mật đổ quân xuống Inchon gần vĩ tuyến 38 đánh bọc hậu bất ngờ làm toàn bộ quân Bắc Hàn tan rã nhanh chóng. Quân Liên Hiệp Quốc gồm Mỹ, Nam Hàn và 21 nước khác (England, Turkey, Australia, Canada, France, Greece, Colombia, Thailand, Ethiopia, Netherlands, Philippines, Belgium, Union of South Africa, New Zealand, Norway, và Luxembourg) truy kích tàn quân Bắc Hàn vượt qua khỏi vĩ tuyến 38 ngày 11 tháng 9 năm 1950, chiếm thủ đô Bình Nhưỡng (Pyongyang), và tiến đến gần sông Áp Lục (Yalu River) giáp biên giới Tàu. Mao Trạch Đông bên kia sông không thể nhịn Nam Hàn núp bóng Mỹ được nữa. Lịch sử nước Tàu đã biết bao lần chứng minh Tàu là nước lớn mới có quyền chinh phạt nước nhỏ, hay dạy cho nước nhỏ một bài học. Tuổi thơ của tôi bị truyện Tàu đầu độc. Tôi cho cái gì của Tàu cũng ghê gớm nhất. Tàu là Trung Quốc, là Thiên Quốc; còn các nước nhỏ chung quanh toàn là bọn mọi rợ Bắc Phiên, Đông Di, Tây Đột, và Nam Man đáng ghét. Tàu dạy cho tôi học làm người quân tử Tàu, dạy cho tôi biết nhẫn nhục để trả thù dù mười năm hay trăm năm cũng không muộn; mà đã trả thù là phải nhổ cỏ tận gốc, phải tru di tam tộc mới đã tay. Ủa, mà tôi làm gì có mối thù bất cộng đái thiên với ai như vậy cà? Tôi chỉ say mê đọc và khoái chí những cuộc trừng phạt, như La Thông Tảo Bắc, Tiết Nhơn Quí Chinh Đông, Tiết Đinh San Chinh Tây, hay Địch Thanh Chinh Nam nào có biết đâu mục đích của những sự trừng phạt đó là thiết lập nền đô hộ dạy cho dân nước nhỏ sống như Tàu rồi từ từ đồng hoá để mở rộng biên cương. Đúng như quân sư Từ Mậu Công đã tâu với vua Đường Thái Tôn (Lý Thế Dân) trong La Thông Tảo Bắc: 
“Xưa nay hễ nước lớn thì phạt nước nhỏ, chứ chưa thấy nước nhỏ mà khiêu khích nước lớn bao giờ, ngày nay nó đã đến, thì chắc là sanh việc chẳng lành, vậy bệ hạ kíp mau phát binh qua mà tảo trừ cho dứt đường hậu hoạn mới xong.” 
Vua Thái Tôn nghe qua mười phần đẹp ý, bèn phong Tần Thúc Bảo làm Tảo Bắc Đại Nguyên Soái và ngự giá thân chinh phạt Bắc Phiên. 
Tiết Nhơn Quí Chinh Đông cũng là bộ truyện Tàu do Tô Chẩn dịch đã diễn nghĩa thêm: Vua nước nhỏ Bắc Tề cho sứ giả mang ba món báu vật là Kim Hà Bửu Quan, Bạch Ngọc Đái, và Huỳnh Mãng Bào sang triều cống Đường thiên tử. Trên đường đi ngang qua nước Cao Ly, sứ giả Bắc Tề bị nguyên soái của Cao Kiến Trang Vương là Cáp Tô Văn đoạt mất báu vật lại thích chữ trên mặt hăm doạ vua Đường sẽ cử binh thâu tóm trung nguyên. Vua Đường Thái Tôn nổi giận lập tức cho tìm hiền thần Tiết Nhơn Quí chinh đông. Kết quả khỏi cần đọc cũng biết trước nước Cao Ly sẽ bị trừng phạt nặng nề về tội vô lễ ấy! 
Con sư tử già MacArthur lúc đó đã hơn 7 bó, chắc chắn không bao giờ đọc truyện Tàu nên không tin Tàu dám nhảy qua sông tham chiến. MacArthur từ tổng hành dinh xa xôi ở Tokyo bay đến Pyongyang hỏi đùa binh sĩ, “Kim Nhật Thành ở đâu, sao không đến đón?” Ông không ở lại chiến trường Triều Tiên một ngày vì cho Tàu chỉ dám diệu võ giương oai bên kia sông Áp Lục; không có gì đáng lo ngại cả! Ông có biết đâu đã có hàng trăm ngàn chí nguyện quân Tàu len lỏi tràn ngập rừng núi Bắc Hàn đang chờ mùa đông nghiệt ngã sắp đến mới ra tay! Ngày 25 tháng 11 năm 1950 Tàu bất ngờ tổng tấn công. Liên quân Liên Hiệp Quốc thua trận rút lui liên tục. Seoul bị đổi chủ tháng Giêng năm 1951, nhưng 2 tháng sau Liên quân Liên Hiệp Quốc lấy lại Seoul, rồi đẩy lùi Bắc quân trở qua bên kia vĩ tuyến 38. MacArthur muốn thừa thắng bắc tiến giải phóng luôn cả bán đảo Triều Tiên; nếu cần sẽ sử dụng bom nguyên tử nướng hết 1 triệu chí nguyện quân Tàu! Tổng thống Harry Truman kinh hãi bèn cất chức tư lệnh chiến trường Triều Tiên của tướng MacArthur vào ngày 11 tháng 4 năm 1951. Một cuộc chiến tranh vô ích không thắng một tấc đất, nhưng đã làm hơn 3 triệu người chết, và làm biết bao gia đình ly tán thế mà vẫn cứ tiếp tục cầm cự nhì nhằng ở hai bên vĩ tuyến đó cho đến khi ký hiệp định đình chiến tại Bàn Môn Điếm (Panmunjeom) vào ngày 27 tháng 7 năm 1953; nhưng một hiệp ước hoà bình thật sự đã gần 60 năm qua vẫn chưa bao giờ được ký kết! 
Vì Bàn Môn Điếm nằm trong vùng phi quân sự, nên du khách muốn đến thăm phải ghi tên đi một trong các tua du lịch được Bộ Tư Lệnh Liên Hiệp Quốc bảo trợ, ví dụ như USO Tour (phone 82-2-795-3028) mỗi tuần tổ chức 2 lần đi thăm JSA và Đường Hầm Thứ 3, giá $77 đô la mỗi người, không bao ăn trưa; hay tua du lịch mà chúng tôi đã tham dự, giá $77 đô la có bao ăn trưa dài khoảng 6 tiếng đồng hồ là Panmunjeom Tour (Tua không đi các ngày lễ, Chúa Nhật, và Thứ Hai). Liên lạc tại địa chỉ: 
6th Floor Lotte Hotel 
#1 Sogong-dong, Jung-gu 
Seoul, South Korea 
Phone: 82-2-755-0073 
Du khách phải trên 11 tuổi, có Passport, và ghi danh ít nhất trước một ngày. Các nước có tên trong danh sách bị hạn chế như Tàu, Việt Nam… phải nộp bản sao tờ đầu tiên của Passport trước 1 tuần. Công dân của vài nước bị cấm vào vùng phi quân sự là Afghanistan, Cuba, Iran, Iraq, Libya, North Korea, Pakistan, Sudan, và Syria. 
Điều lệ vào thăm Bàn Môn Điếm: 
Không được mặc quần áo thể thao, áo tắm, hay mang dép. 
Không được chạm vào các đồ trang bị như microphone hay cờ của phía bên kia trong phòng hội nghị MAC. 
Không được nói, tiếp xúc, hay làm bất kỳ điệu bộ gì đối với nhân viên phía bên kia. 
Không được mang máy chụp ảnh có ống kính quá 90mm. 
Tua khởi hành lúc 8:30 sáng tại bãi đậu xe của khách sạn Lotte. Hôm ấy ít du khách, nên nhóm 15 người chúng tôi do Laura hướng dẫn nói tiếng Anh đi chung xe với nhóm 6 người do một cô nói tiếng Nhật hướng dẫn từ Seoul chạy lên biên giới trên con đường Tự Do (Freedom Road) rộng thênh thang với 12 làn xe. Đường rộng mục đích để xe tăng đến kịp thời nếu chiến tranh xảy ra. Bà Laura lật lại từng trang sử chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên kể chuyện rất lôi cuốn; chẳng mấy chốc xe chạy qua khúc hợp lưu của sông Han phía nam và sông Imjin từ phía bắc chảy xuống đã thấy xuất hiện lô cốt và hàng rào kẽm gai phòng thủ giăng liên tục dọc theo bờ sông phía nam. Mờ mờ bên kia sông là Bắc Hàn. Đường Tự Do đến Imjingak là ngôi làng cuối cùng trước khi vào trại Bonifas hẹp dần dựng đầy chướng ngại vật để chận xe tăng. Xe ngừng ở cổng trại Bonifas. Bà Laura nhắc nhở bắt đầu từ đây cho đến trước khi vào JSA (Joint Security Area) tức Khu Vực An Ninh Chung ở Bàn Môn Điếm, tuyệt đối không được phép chụp hình. Bonifas là cửa phía nam đi vào vùng phi quân sự. Bonifas là bản doanh của bộ tư lệnh lực lượng Liên Hiệp Quốc phòng vệ an ninh JSA, trợ giúp uỷ ban kiểm soát đình chiến, quản trị làng Tự Do, và hướng dẫn du khách. Trại Bonifas chỉ cách JSA 400 mét. Một quân nhân Nam Hàn lên xe nhìn mặt từng người và kiểm soát Passport; rồi cho chạy vào bãi đậu xe, lại kiểm soát một lần nữa trước khi vào phòng coi phim và nghe thuyết trình sơ lược về JSA. Binh sĩ ở trại Bonifas ăn ngủ với súng đạn đeo bên người và luôn luôn túc trực trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến 100 phần trăm. Sau khi mỗi người đã đọc và ký tờ cam kết “Visitor Declaration” chấp nhận đi vào vùng thù địch có thể chết hay bị thương do hành động phía bên kia gây ra phải ráng chịu, và phải tuân theo các điều hướng dẫn thăm viếng JSA, mỗi người được phát một cái nhãn mầu xanh dán lên túi áo trên ngực chứng minh là du khách của Liên Hiệp Quốc. Du khách được chuyển qua xe của Liên Hiệp Quốc chạy vào JSA ở Bàn Môn Điếm. 
Bàn Môn Điếm (Panmunjeom) là cách viết cho dễ đọc của đại diện phe Tàu trong hội nghị đình chiến, còn tên thật theo tiếng Triều Tiên là Neolmun-ri. Bàn Môn Điếm là Khu Vực An Ninh Chung (Joint Security Area tức JSA) duy nhất trong vùng phi quân sự (DMZ: Demilitarized Zone) được đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Tư Lệnh Liên Hiệp Quốc và Bắc Hàn dùng làm nơi hội thảo và gặp gỡ quân sự giữa hai bên. JSA hình chữ nhật, dài 800 m, rộng 400 m. Đường phân ranh giới (Military Demarcation Line gọi tắt là MDL) vô hình cắt đôi khu JSA và cắt đôi bán đảo Triều Tiên thành hai nước thù địch. Từ đường phân ranh giới ngược về phía bắc 2 km và lui về phía nam 2 km là vùng phi quân sự. Vùng phi quân sự phân ranh hai nước được kể từ dưới đất, dưới sông, dưới biển, hay trên trời dài khoảng 250 km rải đầy mìn bẫy. Với một triệu binh sĩ phía Bắc Hàn và 600 ngàn quân Nam Hàn cộng với 37 ngàn quân Mỹ túc trực ngay bên ngoài vùng phi quân sự rộng 4 km đó biến biên giới giữa Bắc Hàn và Nam Hàn thành vùng nguy hiểm nhất thế giới. Khi mới thành lập, nhân viên cả hai bên được tự do đi lại trong Khu Vực An Ninh Chung nầy, nhưng kể từ sau vụ chém giết bằng rìu (The Axe Murder Incident) ngày 18 tháng 8 năm 1976 khi nhân viên bên Liên Hiệp Quốc tỉa cây bạch dương (the poplar tree) ở gần Bridge of No Return cho dễ quan sát bị binh sĩ phía Bắc Hàn túa ra cấm cản, rồi rút rìu chém chết 2 sĩ quan Mỹ là Đại uý Arthur Bonifas và Trung uý Mark Baret cùng 4 binh sĩ Nam Hàn thì hai bên không còn được phép tự do bước qua đường phân ranh giới trong JSA nữa. 
Chúng tôi được hướng dẫn đứng thành hai hàng ngay phía trước Fredom House thay phiên nhau chụp hình lính Nam Hàn cao lớn đứng trong một tư thế Thái Cực Đạo rất oai nghiêm bên nầy nhìn đăm đăm sang lính Bắc Hàn đứng trên hành lang Panmungak phía bên kia dùng ống nhòm quan sát đám du khách chúng tôi. Chỉ cần thấy một cử chỉ đáng nghi nào đó đối với lính Bắc Hàn thì có thể sẽ bị một viên đạn bay vèo sang trúng chết ráng chịu! Hai anh lính Bắc Hàn bên ấy chắc không thích bị chụp hình nên lúc ẩn lúc hiện. Mỗi năm có khoảng 200 ngàn du khách đến viếng nửa phía nam JSA; còn du khách đến viếng phía bắc JSA không tới 10 ngàn người. Giữa Freedom House và Panmungak là 7 căn nhà xây đơn sơ kiểu như loại nhà di động được sơn mầu khác nhau. Đường phân ranh giới vô hình giữa hai nước cắt đôi các căn nhà đó. Ba căn nhà phía cuối bên trái chúng tôi là phòng họp của 2 nước cộng sản Tiệp Khắc (Czechoslovakia) và Ba Lan (Poland) trong uỷ ban 4 nước kiểm soát hiệp định đình chiến nay trống vắng vì 2 nước đó đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản để theo tự do nên đã bị Bắc Hàn đuổi về nước năm 1995 và năm 1998. Hai nước còn lại trong uỷ ban kia là Thụy Sĩ (Switzerland) và Thụy Điển (Sweeden) vẫn còn đó, nhưng có phòng họp riêng xa hơn một tí ở bên phía nam đường phân ranh. Trên thế giới bây giờ đâu còn bao nhiêu nước theo chủ nghĩa cộng sản nữa mà Bắc Hàn không đề nghị với Liên Hiệp Quốc mời ngay hai nước bạn thân yêu cùng chung ngoại tổ Lenin là Cu Ba và Việt Nam vào thay thế Tiệp Khắc và Ba Lan nhỉ? Bên phải ba ngôi nhà ma đó là 3 căn nhà sơn mầu xanh. Căn bên trái là phòng họp của uỷ ban cố vấn 4 nước kiểm soát hiệp định đình chiến. Căn bên phải là phòng họp của sĩ quan an ninh chung (Joint Duty Ofice gọi tắt là JDO) mỗi ngày họp một lần lúc 12 giờ trưa. Du khách phía bắc được đưa vào thăm JDO. Du khách phía nam chúng tôi được hướng dẫn vào thăm căn chính giữa là phòng họp của uỷ ban quân sự đình chiến (Military Armistice Commision gọi tắt là MAC). Đây là nơi dành cho những cuộc họp cỡ cấp tướng trở lên để giải quyết các vụ vi phạm trầm trọng đối với hiệp định đình chiến. Chắc đã lâu không có chuyện gì quan trọng cần họp nên trong phòng MAC chỉ thấy bàn ghế trống trải cô đơn, không treo cờ cũng không gắn điện thoại! Ồ, có anh lính Nam Hàn đứng oai nghiêm như pho tượng, ai cũng sắp hàng chờ được chụp hình chung. Bên ngoài cửa sổ ngay giữa phòng họp là đường phân ranh giới chia sân xi măng phía bắc và sân đá cuội phía nam. Nhân viên an ninh 2 phía Bắc Nam đứng cách nhau một gang tay; nhưng hai miền vẫn còn xa cách vời vợi! 
Từ năm 1979, ngoài những cuộc họp quân sự, JSA còn được dùng làm nơi gặp gỡ của Hội Hồng Thập Tự, các cuộc đối thoại, trao đổi, và cộng tác hòa bình giữa hai miền. Chung Ju-mung sinh ngày 25 tháng 11 năm 1915 ở Kangwon, Bắc Hàn, năm 16 tuổi trốn nhà ra tỉnh tìm việc làm 2 lần, nhưng bị cha tìm bắt về tiếp tục cày ruộng. Lần trốn nhà thứ 3, ông lén bán một con bò của cha để có tiền mua vé xe lửa đi Seoul làm đủ nghề từ lao công bến cảng Incheon đến giao gạo. Sau giải phóng ách đô hộ của Nhật, ông sáng lập công ty Hyundai chuyên lãnh vực xây cất. Khi chiến tranh do quân Bắc Hàn xâm chiếm Nam Hàn, ông cùng gia đình và anh em bỏ của chạy xuống Busan. Sau hiệp định ngừng chiến, ông tái lập công ty Hyundai thầu các dự án tái thiết đất nước và kỹ nghệ. Hyundai phát triển nhanh chóng trở thành đại công ty xây cất và chế tạo tất cả mọi thứ từ chiếc căm xe đạp, xe hơi, đến đóng thuyền. Công ty Hyundai đã đầu tư các dự án xây đường sắt, đập nước, trung tâm nghỉ mát… ở Bắc Hàn. Ngày 16 tháng 6 băm 1998 Chung Ju-mung dẫn đầu đoàn xe 50 chiếc Hyundai chở 500 con bò thống nhất (Unification Cows) xuyên qua Bàn Môn Điếm tặng cho nhân dân làng cũ của ông ở Bắc Hàn. Ông cũng không quên tặng thêm 1 con bò để trả lại con bò năm xưa ông đã lén cắp của cha đém bán để mua vé xe lửa đi Seoul. Sau đó Chung Ju-mung còn làm một chuyến tặng thêm 500 con bò thống nhất nữa trước khi ông chết ngày 21 tháng 3 năm 2001. 
Chúng tôi trở ra xe chạy dọc theo đường phân ranh giới cắm cột mốc, mỗi cột cao 1 mét và cách nhau 10 mét. Từ đây cho đến khi trở về bãi đậu xe ở trại Bonifas xe không ngừng, nhưng chạy chậm vừa đủ cho du khách ngắm cảnh đẹp hoang liêu trong Bàn Môn Điếm và chụp hình. Đi ngang qua nơi xảy ra vụ thảm sát năm xưa lính Bắc Hàn rút rìu chém chết lính Mỹ và Nam Hàn làm cả thế giới lên cơn sốt, cây bạch dương không còn nữa, chỉ còn bia đá kỷ niệm chơ vơ bên đường. Gần đó là Bridge of No Return (Nhịp cầu không cho quay trở lại). Đây là cây cầu bắc qua sông Sachon dùng làm đường phân ranh thiên nhiên nam bắc. Nhân viên từ phía Bắc Hàn đến Khu Vực An Ninh Chung ở Bàn Môn Điếm phải đi qua cây cầu nầy. Từ khi ký kết hiệp định đình chiến ngày 27 tháng 7 năm 1953, Bridge of No Return được dùng trao đổi tù binh. Tù binh chở đến cây cầu nầy được phép bước qua cầu trở về nước hay chọn ở lại phía bị bắt. 14049 tù binh của lực lượng Liên Hiệp Quốc và 120523 tù binh Bắc Hàn lẫn Chí Nguyện Quân Trung Cộng (Chinese People’s Volunteer Army) đã bước qua cây cầu nầy. Tù binh một khi đã quyết định bước qua cầu thì không được phép quay trở lại nên cây cầu vô danh trên dòng sông Sachon bỗng trở thành cây cầu Bridge of No Return độc đáo trong lịch sử chiến tranh. Bridge of No Return được tái sử dụng vào ngày 28 tháng 12 năm 1968 khi 82 thủy thủ đoàn của tàu hải quân Mỹ USS Pueblo xâm phạm lãnh hải bị Bắc Hàn bắt làm tù binh sau gần 1 năm được trả tự do, nhưng con tàu USS Pueblo vẫn còn bị Bắc Hàn sử dụng làm viện bảo tàng tuyên truyền chống Mỹ. Từ sau vụ “The Axe Murder Incident” ngày 18 tháng 8 năm 1976 đã kể trên, Bridge of No Return bị đóng cọc cấm qua lại làm Bắc Hàn hết đường ra vào Bàn Môn Điếm bèn vội vã xây một cây cầu khác cách đó khoảng 1 km trong vòng 72 giờ. Cây cầu mới nầy được gọi là “72 Hour Bridge” nằm phía Bắc Hàn nên du khách phía nam không nhìn thấy. 
Trong vùng phi quân sự gần Bàn Môn Điếm đặc biệt có 2 ngôi làng đối diện cách nhau một bãi mìn rộng 2 km. 
Taesong-dong được gọi là làng Tự Do (Freedom Village) có cột cờ cao 98.4 mét treo lá cờ Hàn Quốc nặng 130 kg (286 lbs). Làng có khoảng 200 nông dân đã sinh sống từ lâu đời ở đó. Dân làng Tự Do không phải đóng thuế và được miễn thi hành nghĩa vụ quân dịch. Ban ngày ra đồng làm ruộng được lính đứng canh trên bờ kẻo quân Bắc Hàn lẻn sang tóm cổ đòi tiền chuộc! Mặt trời lặn phải về nhà. Giới nghiêm sau 11 giờ đêm phải đóng khoá cửa cẩn thận. Bực mình nhất là lên giường ngủ phải trùm mền và mang nút bịt tai chắn tiếng loa tuyền truyền phát ra từ làng Kijong-dong. Muốn trở thành dân làng Tự Do phải được sinh ra ở đó hay do kết hôn, nhưng đàn ông ngoài làng Tự Do không được kết hôn với cô gái trong làng để trốn thuế hay trốn quân dịch. Muốn giữ quyền công dân làng Tự Do mỗi năm phải ở liên tục trong làng ít nhất 8 tháng. Tuy nguy hiểm và kém thoải mái, nhưng lợi tức trung bình hàng năm của mỗi dân làng khoảng 100 ngàn đô la! 
Đối diện làng Tự Do là làng Kijong-dong có cột cờ Bắc Hàn cao 160 mét, cao nhất thế giới; riêng lá cờ không thôi đã nặng 270 kg (594 lbs). Kijong-dong là một ngôi làng xây toàn cao ốc giả tạo hiện đại, bên trong trống ộc trống ạc không có người ở, dùng để tuyên truyền thiên đường cộng sản Bắc Hàn giàu mạnh; nhưng thiên đường đã mất không còn gì để tuyên truyền mà người dân lại quá nghèo khổ nên bây giờ làng Kijong-dong đã có người ở thật. 
Chúng tôi trở lại trại Bonifas mua ít món quà lưu niệm, rồi lên xe tua ra khỏi vùng phi quân sự. Trên đường về ghé thăm Imjimgak. Du khách không đi tua vào thăm Bàn Môn Điếm được, có thể tự lái xe, đi xe buýt hay xe điện ngầm đến Imjingak ngắm cảnh biên giới. Imjingak là công viên lưu giữ nhiều di tích chiến tranh xây bên dòng sông Imjin năm 1972 để an ủi gia đình có thân nhân hay bạn bè đã mất hoặc ly tán trong chiến tranh 1950-1953 không được trở về nhà. Nơi đây có đài quan sát, chuông hoà bình, bàn thờ ly tán, con ngựa sắt muốn chạy (The iron horse wants to run), và cây cầu Tự Do (Freedom Bridge) nổi danh xây bằng gỗ dài 83 mét bắc vào đường xe lửa chạy qua cây cầu sắt sơn mầu trắng trên dòng sông Imjin. Đó là cây cầu duy nhất nối liền hai miền nam bắc. Freedom Bridge được xây để đón 12773 tù binh Liên Hiệp Quốc trở về tự do. Freedom Bridge đi ra phía bắc nay đã bị đóng bít lại bởi bức tường cao rào kẽm gai. Du khách đến sờ bức tường ngậm ngùi và gắn lên đó vô số giải lụa đủ mầu sắc ghi lời ao ước hoà bình và thống nhất sẽ trở về mang lại hạnh phúc thật sự cho dân tộc Triều Tiên. 
Tại Imjingak vài du khách trong đoàn chia tay lên xe khác đi thăm Đường Hầm Thứ 3 là đường hầm lớn nhất trong 4 đường hầm do Bắc Hàn lén đào xuyên qua vùng phi quân sự bị quân Nam Hàn khám phá. Đường hầm đó dài 1.7 km, rộng 2 m, cao 2 m, cách mặt đất 73 m có thể cho 30 ngàn quân Bắc Hàn bí mật tiến qua biên giới trong 1 tiếng đồng hồ. Hai lần về Việt Nam muốn đi Tây Ninh thăm Thánh Thất Cao Đài, nhưng thấy tua du lịch nào đi Tây Ninh cũng bắt buộc phải ghé coi đường hầm Củ Chi, nên chúng tôi vẫn chưa biết Tây Ninh. Chúng tôi chán ghét tất cả mọi đường hầm gây chiến tranh nên theo xe tua đi ăn trưa và trở về Seoul. 
Buổi chiều hôm đó, tôi theo mẹ con nàng đi dạo Seoul. Seoul có nghĩa là “thủ đô” rồi nên không cần gọi thủ đô Seoul. Tên cũ của Seoul là Hanyang tức Hán Thành. Tướng Yi Seong-gye cướp ngôi nhà Cao Ly (Goryeo Dynasty) thiết lập ra triều đại Triều Tiên (Joseon Dynasty) kéo dài từ năm 1392 đến năm 1910. Deoksu Palace nằm đối diện với toà đô chánh Seoul là một trong 5 cung điện hoàng gia Triều Tiên ở Seoul tuy đã trải qua bao lần bị chiến tranh tàn phá, nhưng nay đã phục hồi được vẻ đẹp độc đáo nguyên thuỷ của kiến trúc truyền thống pha lẫn vẻ đẹp mới mẻ của tây phương. Trước cổng hoàng cung Deoksu có nghi lễ đổi lính canh một ngày 3 lần lúc 11 giờ, 2 giờ, và 3 giờ 30 đẹp lộng lẫy và rất long trọng. Ngay giữa quảng trường Gwanghawmun ở trung tâm thủ đô có 2 bức tượng được toàn thể dân tộc Triều Tiên muôn đời kính ngưỡng. Bức tượng người đứng cầm kiếm cao 17 mét bằng đồng đen là Đô đốc Yun Sun-si, người đã đánh tan hạm đội Nhật xâm lăng vào ngày 26 tháng 10 năm 1597 tại eo biển Myeongyang, và bức tượng người ngồi đọc sách bằng đồng vàng cao 9.5 mét là Sejong The Great (trị vì từ năm 1418 đến năm 1450). Dười thời vua Sejong nước Triều Tiên tiến bộ rất nhiều về canh nông và khoa học như phát minh máy đo nước mưa, thiên văn cầu, đồng hồ mặt trời… Nhưng phát minh quan trọng nhất đã giúp dân tộc Triều Tiên thoát khỏi anh hai Nhật và anh ba Tàu đồng hoá là nhà vua đã phát minh ra chữ viết Hangeul tức hệ thống chữ viết Korean vô cùng đơn giản ngày nay hơn hẳn Tàu và Nhật đều lúng túng xếp chữ để gõ trên bàn phím computer. Một dân tộc dù hùng mạnh đến đâu mà không có chữ viết cũng sẽ bị đồng hoá hay mất gốc! 
Chúng tôi vui chân theo hướng dẫn viên Thái-Thanh đi bộ ngang dọc thủ đô một hồi đến khu Insadong. Đường chính trong Insadong là Insadong-gil dẫn sâu vào nhiều ngõ ngách buôn bán nhộn nhịp như khu phố cổ Hà Nội. Insadong có rất nhiều tiệm ăn, hàng quán bán bánh kẹo truyền thống, tiệm đồ cổ và tranh ảnh nghệ thuật. Nơi đây vào ngày cuối tuần tiếp nhận hơn 100 ngàn du khách. Insadong là một trong vài nơi ở thủ đô du khách ngoại quốc thích đến thăm nhất. Một nơi khác cũng được ưa chuộng không kém là Bukchon Hanok Village. Đó là ngôi làng truyền thống được xây từ hàng trăm năm trước vẫn còn giữ được nét cổ kính nguyên vẹn. Nơi đây có nhiều quán ăn và quán bán nước trà pha chế đủ mùi vị hấp dẫn. Từ trên dốc cao ở làng Bukchon Hanok, Thái-Thanh chỉ Tháp Seoul xa tít, nói: 
– Chúng ta sẽ đi đến đó ăn tối. 
– Bố đã hết xí quách rồi! 
Đêm cuối cùng, Thái-Thanh đãi bố mẹ ở quán ăn ngồi bệt trên sàn bên lò nướng có ống chụp hút khói đúng kiểu Barbecue Hàn Quốc ngon tuyệt cú mèo! 
Sáng hôm sau gọi điện thoại chia tay Park, người bạn hôm nào cùng Hiking trên Buramsan. Park lập tức lái xe đưa vợ con đến mời chúng tôi bữa ăn chia tay. 
Ôi… tôi yêu mến người bạn Hàn nầy và đất nước của anh vô cùng, nhưng nếu ở lâu thêm nữa, tôi chắc chết vì ăn! 

Em Còn Nhớ Không?

Em Còn Nhớ Không?

Thái-Vinh
(Mến tặng em Mùi Cầu Sắt)

Tôi thường đùa, “Năm ba mươi tuổi nếu không gặp được người mình yêu, tôi sẽ đi tu!” Không ngờ năm ấy tôi gặp được nàng. Quê nàng ở tận Lyon, một thành phố thơ mộng nằm bên bờ hợp lưu hai dòng sông Rhône và Saône chảy êm đềm về phía đông nam nước Pháp, cách Paris 470 km.
Người Việt ở Lyon và các vùng phụ cận phần lớn theo đạo Phật, nhưng lúc đó chưa có chùa. Tín đồ bên Công Giáo may mắn hơn đã có linh mục chăm sóc đời sống đức tin. Linh mục Bernard Trần Ngọc-Hải là tuyên uý đầu tiên của Cộng Đoàn Công Giáo người Việt ở Lyon được thành lập từ tháng 10 năm 1975 với các sinh hoạt bao gồm Thánh Lễ Chúa Nhật, thăm viếng các trung tâm tiếp cư, tìm gia đình bảo trợ, thông dịch, kiếm việc làm… được sự hỗ trợ của thầy Clément Thể (thụ phong linh mục năm 1979), sœur Marie Germaine Tâm, sœur Marie Léa Lou-Li-Tchen, sinh viên, cơ quan Cứu Trợ Công Giáo, và cựu chiến binh Pháp. Cộng đoàn đã thuê một căn nhà của giáo xứ Immaculée Conception (Lyon 3), và lấy tên là Trung Tâm Liên Lạc Công Giáo Việt Nam. Thứ Bảy có các lớp giáo lý, tiếng Việt cho trẻ em và tiếng Pháp cho người lớn. Năm 1985, Cộng đoàn mang tên Mission Catholique Vietnamienne. Kể từ năm 1989, Cộng đoàn được dùng nhà thờ Saint Pierre Chanel cho các sinh hoạt tôn giáo và hội họp được sự trợ lực của các thầy dòng Tận Hiến Ðức Mẹ Vô Nhiễm (Missionary Oblates of Mary Immaculate).
Linh mục Bernard Trần Ngọc-Hải là chủ tế ban phép hôn phối cho chúng tôi. Năm nào nghỉ hè, chúng tôi cũng đưa con về Lyon thăm Ngoại, thăm bà cụ cha Hải, và đi lễ tại nhà thờ giáo xứ Immaculée Conception; nhưng lần nào tôi cũng vẫn không dám thân thiện đến thăm riêng linh mục Bernard Trần Ngọc-Hải chỉ vì trông ông không giận mà rất nghiêm. Tôi đùa với nàng, “Cưới em, anh đã cướp mất tiếng sông Hồng trong Hội Trùng Dương của ca đoàn thì làm sao dám gặp mặt nhạc trưởng?” Cho đến mùa xuân năm 1992, chịu hết nổi mùa đông băng giá và cô đơn ở thành phố biên thùy Northvale của tiểu bang New Jersey giáp New York, tôi bỏ nước Mỹ đi sang Pháp, rồi về Tân Đảo (Nouvelle Calédonie) tái hợp với mẹ con nàng. Trong ba tháng ở Lyon, tôi học nghề sửa Radio, Tivi, và Telephone với cậu Phục. Lúc đó Phật tử ở Lyon đã có Thiện Minh Tự. Mấy ngày Tết, tôi theo cậu Phục đi chùa, coi chợ Tết Sinh Viên, tham dự Bữa Cơm Xã Hội và Văn Nghệ do chùa Thiện Minh tổ chức tại Centre Culturel Oecumenique tại Villeurbanne. Trong buổi văn nghệ ấy, cậu Phục lén ghi tên tôi lên hát trên sân khấu. Không ngờ bài thơ “Tình Quê Hương” của Đại uý Phan Lạc Tuyên viết sau chiến dịch giải phóng thôn Sa Huỳnh năm 1956 với những lời thơ mộng được Đan Thọ phổ nhạc mà ít người còn nhớ, cũng là bài hát mà linh mục Bernard Trần Ngọc-Hải từng ưa thích:
Anh về qua xóm nhỏ
Em chờ dưới bóng dừa
Nắng chiều lên mái tóc
Tình quê hương đơn sơ
Quê em nghèo cát trắng
Tóc em lúa vừa xanh
Anh là người lính chiến
Áo bạc màu đấu tranh
Em mời anh dừng lại
Đêm trăng ướt lá dừa
Bên nồi khoai mới luộc
Ngát thơm vườn ngâu thưa
Em hẹn em sẽ kể
Tình quê hương đơn sơ
Mẹ già như chiều nắng
Nhớ con trai chưa về
Ruộng nghèo không đủ thóc
Vườn nghèo nong tầm thưa
Ngõ buồn màu hoang loạn
Quê nghèo thêm xác xơ…

Ông có mặt hôm đó, khen tôi hát hay vì biết nắm cái hồn của bài hát. Chúng tôi đã nhanh chóng trở thành đôi bạn văn nghệ. Vài hôm sau, nhờ Bản Tin Cộng Đoàn Công Giáo Lyon, tôi tìm thăm và kết bạn với nhạc sĩ Trịnh Hưng, tác giả các ca khúc nổi tiếng vào giai đoạn thanh bình nhất của Miền Nam từ năm 1954 đến năm 1960 như Tôi Yêu, Lúa Mùa Duyên Thắm, Lối Về Xóm Nhỏ, Trăng Soi Duyên Lành… Nhờ nhạc sĩ Trịnh Hưng, tôi lại quen thi sĩ kiêm bác sĩ Nga, người thường chữa bệnh miễn phí cho nhạc sĩ Trịnh Hưng. Và những tâm hồn văn nghệ ở Lyon đã có một buổi văn nghệ cháo gà đầu năm tại tư thất của bác sĩ Nga. Buổi văn nghệ ấy đã cho tôi nhận thấy cái hồn nghệ sĩ nồng ấm trong con người tu sĩ khổ hạnh. Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Trần Ngọc-Hải đánh đàn Hạ Uy Di và hát hai bản tình ca do ông sáng tác từ thuở đôi mươi khi còn là sinh viên hoạt động trong phong trào Thanh Sinh Công tại miền Nam Việt Nam vào những năm đầu thập niên 1960. Cần nói thêm phong trào Thanh Sinh Công đã du nhập vào Việt Nam từ năm 1937 do các sư huynh Lasan thành lập và phát triển đem tinh thần Phúc Âm vào đời sống sinh viên và học sinh. Đại hội Thanh Sinh Công toàn quốc đầu tiên được tổ chức tại Sài Gòn năm 1961; và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhóm họp tại Đà Lạt vào ngày 20 tháng 4 năm1964 đã công nhận Thanh Sinh Công là phong trào hoạt động tông đồ có tính cách toàn quốc cho giới sinh viên và học sinh.
Biết tôi rất yêu thích, ông đã chép lại mấy bản nhạc tâm tình của mình, rồi tức tốc cỡi xe đạp đến gặp tôi tại một quán nước trên đường Félix Faure trước giờ tôi ra ga xe lửa giã từ Lyon vào ngày 14 tháng 4 năm 1992.
Tôi đã mang những bài hát của nhạc sĩ Trần Ngọc-Hải đi lang thang khắp nơi qua một phần tư thế kỷ mà chưa có cơ hội phổ biến. Trong quãng thời gian ấy, đôi khi vô tình bật tiếng hát vu vơ “Em còn nhớ không…” tôi giật mình chợt nhớ lại tâm tình trong “Những Buổi Chiều Xưa” của người bạn sống đời tu sĩ:
Em còn nhớ không?
Những hôm mây bay đầy trời
Đường về nhà em có sao chiều đưa lối
Đường về nhà em có tiếng hát thơ ngây
Có em tôi mơ màng vương buồn về xa xôi
Em còn nhớ không?
Những hôm trăng thanh ngày mùa
Rộn ràng từ trên xóm ai cười ai nói
Giọng hò nhẹ vang bên gánh lúa ven đê
Sáo êm đưa lối về
Ôi tình quê chứa chan!
Mơ ngày về thăm quê nhà
Về thăm mái lá đơn sơ
Về thăm đồng quê xanh mờ
Có bóng con đò trôi khi sương chiều buông lơi
Anh nào đã quên lũy tre xanh đầu làng
Một ngày đầu thu gió may về xơ xác
Một ngày đầu thu anh thấy dáng em đi
Bước chân em qua thềm, ôi giờ đây nhớ quá!
Anh nào đã quên những hôm mưa rơi mịt mù
Trời buồn làm sao! Nghĩ thương mình thương quá!
Lặng nhìn thời gian, anh thấy kiếp bơ vơ
Kiếp muôn năm đợi chờ, âm thầm mơ lứa đôi

Làm sao quên được buổi trưa năm ấy trong một quán nước yên tĩnh trên đường Félix Faure, tôi đã khen:
– Thật là một bản tình ca yêu người và yêu quê hương thật thơ mộng êm đềm! Những bài hát có lời đẹp và hay như “Những Buổi Chiều Xưa” ngày nay không còn nữa. Chắc hẳn đó là bức tranh làng quê của tác giả ở miền Bắc?
Thoáng một chút cảm động, người nhạc sĩ mơ màng về phương trời kỷ niệm:
– Hồi ấy, năm 1960 tôi biết Quy qua những lần sinh hoạt trong phong trào Thanh Sinh Công. Rồi chúng tôi học cùng một lớp với nhau tại trường Trường Sơn để dọn thi tú tài. Năm 1961 chúng tôi dính bảng. Một buổi sáng trong tuần dọn thi vấn đáp, tôi lại nhà chị Bá ở vùng Bàn Cờ đường Phan Đình Phùng với anh Liễm (sẽ là anh rể của tôi sau này). Tôi thấy Quy đang nói chuyện say mê với mấy cô bạn cùng tuổi. Họ đều là những người đẹp. Tôi có nói lời chào Quy và không được đáp lại. Buồn lòng tôi yên lặng ra về và dặn với linh hồn mình rằng sẽ không bao giờ trở lại chốn này nữa. Ngày hôm sau, trời Sài Gòn đầy mây trắng, tôi ngậm ngùi làm nhạc để kể lể sự cách biệt “muôn đời” giữa tôi và Quy. Sự cách biệt tàn khôc mà tôi không ngờ trong “nháy mắt” đã đặt tôi trên bờ một dòng sông. Và từ bờ bên này, tôi đã hát vọng sang bờ bên kia để kể lại cho Quy nghe những nhớ nhung của mình về tiếng hát dịu dàng của một người, về những lần đã nói chuyện với nhau vui như những ngày Tết, về những bước chân người đó đã in trên các đường phố, nhất là về cảnh trí ngôi làng sinh trưởng của Quy ở vùng Nga Sơn, Thanh Hóa. Tôi bảo đảm cảnh này là cảnh có thực do chính Quy đã kể lại và tôi đã cẩn thận vẽ lại trong trí tưởng tượng của tôi. Rất may, nhờ nhạc mà cảnh này vẫn còn xinh tươi mặc dù ngôi làng đã bị những trận bão lụt liên tiếp tàn phá; và mặc dù trong thực tế, chúng tôi đã xa cách nhau từ ngày ấy… Nhạc làm xong, chị tôi biết được câu chuyện, đem kể lại cho Quy. Quy mời tôi lại chơi đằng nhà chị Bá vì hồi đó Quy thích ở trên nhà chị Bá, có lẽ vì sự yên tĩnh để học. Chúng tôi đã nói chuyện lại với nhau. Tôi đã hát bài này cho Quy nghe khi Quy ngồi trên bậc thứ hai của một cầu thang gỗ; và tôi, trên một chiếc ghế đẩu bên cạnh. Nghe hát xong, Quy nói nhẹ một câu, hình như chỉ để riêng cho tôi nghe “Cũng cảm động lắm”. Tôi rất tiếc không được nhìn thấy giọt nước mắt trên khuôn mặt của Quy. Sự thiếu giọt nước mắt này đã cho tôi hiểu một điều như là sự thật rằng Quy không có yêu mình nhiều như mình tưởng! Chính vì ý nghĩ ấy mà trong dịp chép lại bản nhạc này vào cuốn nhạc ký của Quy, một thứ lưu bút ngày xanh do Quy chế ra, tôi đã viết một câu “Tôi không sợ ngày chúng mình phải xa nhau bởi vì tôi biết rằng chuyện đó tự nó, nó sẽ xảy ra và chuyện buồn của chúng mình vì thế bao giờ cũng vẫn đẹp”.
Bị thu hút bởi câu chuyện quá đẹp trong bức tranh “Những Buổi Chiều Xưa”, tôi say sưa ngồi nghe mối tình đầu ấp ủ trong quãng đời sinh viên vẫn không phai mờ trong tâm hồn của một nghệ sĩ linh mục. Thượng Đế đã cho con người một trái tim biết rung động; nhưng không phải lúc nào cũng gặp được một trái tim khác hoà điệu cùng một nhịp. Những mối tình đẹp thường là những mối tình câm, nên từ đó thơ nhạc được ra đời. Nhạc phẩm “Những Buổi Chiều Xưa” được nhà in Tương Lai xuất bản tại Sài Gòn ngày 9 tháng 11 năm 1961. Bài hát này đã được trình bày nhiều lần trên đài phát thanh Sài Gòn và Quân Đội qua tiếng hát của Ánh-Tuyết, Anh-Ngọc, và Ngọc-Quang. Thời đó sinh hoạt văn nghệ của Miền Nam thanh bình rất sôi động. Nhiều ban nhạc trẻ ra đời. Ba nhạc sĩ sinh viên Ngọc-Hải (đàn Hạ Uy Di), Ngọc-Quế (đàn violin và piano), và Ngọc-Quỳnh (piano và guitar) đã thành lập ban nhạc trình diễn ca hát và mở lớp dạy nhạc tại 645/39 đường Phan Thanh Giản, Sài Gòn. Sau một năm sinh hoạt văn nghệ, mối tình câm đã không phai nhạt mà còn phát triển đến tuyệt đỉnh có thể “đếm từng tiếng mưa rơi”; và chỉ có người trong cuộc bị yêu thầm, sau khi đi lấy chồng mới thật sự thấm thía nỗi đau đớn của bản thất tình ca Đàn Lòng Xa Cách:
Ngày nào gặp em
Hoa nắng rắc hương ấm loang trên hè vắng
Đàn anh buông lơi theo tiếng hát không lời
Nhạc lòng chơi vơi
Tìm về đôi mắt
Ôi nhớ quá đôi mắt chưa chan mộng ước
Lặng mơ miên man anh đã thầm mơ đến
Một kiếp duyên lành
Rồi một chiều mưa rét mướt
Tìm đến em tôi
Đường về nhà em khuất lối sầu lắng khôn nguôi
Đếm từng tiếng mưa rơi
Đếm từng phút chia phôi
Kỷ niệm xưa sao quá xa xôi!
Đàn lòng xa cách
Anh cố nén thương nhớ, ấp trong nguyện ước
Nhạc trầm đâu đây, vang tiếng hát êm đềm
Niềm thương xa xăm
Đường đời muôn lối
Hoa thắm sắc phơi phới, lúa reo mùa mới
Thì lòng anh đây, sao vẫn còn vương vấn
Tình đã xa mờ?

Tháng 9 năm 1962 Trần Ngọc-Hải vào tu viện Châu Sơn ở Đơn Dương. Năm 1967 xuất ngoại du học, va chịu chức linh mục vào năm 1973 tại Hauterive, Thụy Sĩ. Sau 30 năm làm tuyên úy cho người Việt tại giáo phận Lyon và 7 năm cho giáo xứ người Pháp tại Roanne, nhạc sĩ linh mục Bernard Trần Ngọc-Hải đã nghỉ hưu. Trong số hàng trăm bản nhạc vừa đạo vừa đời sáng tác bởi một nhạc sĩ linh mục, không biết nhạc phẩm “Lời Nhắn” được ông viết ra năm nào? Nhưng tôi cho “Lời Nhắn” là một bản đàn êm ái cuối cùng khép lại. Mối tình trong sáng đã thăng hoa thành tình yêu giữa con người và Thượng Đế là Cha của chúng ta ở trên trời:
Anh ưa đếm những vì sao trên trời vắng
Được một nghìn anh sẽ chia đều cho em
Làm vốn những khi trời nhẹ buồn
Vì đường về còn xa lắm em!
Anh sẽ rắc nỗi lòng anh trên ruộng lúa
Một ngày nào lúa chín như ngàn sao xa
Nhìn ngắm hoa nhạc vừa chào đời
Lòng anh vui như nước về khơi
Quy ơi, em sẽ đi về bến nào?
Mộng đời em đã xong chưa?
Còn chiều nay? Ngày mai?
Hỏi thăm em đã nhớ ai?
Mơ ước thành mơ?
Thương là thương nhớ em
Là thương tiếng em êm đềm vang trên đường đi
Là thương nếp sống
Anh nhớ thương em qua núi qua sông
Qua tiếng kinh cầu
Qua suối tình yêu
Ngày mai nắng lên gieo hương nồng
Ngày mai có những vui ngày mai
Và nếu có nhớ ai xa xôi
Em cố quên sầu gói trong mộng vàng
Quy ơi, anh nhắn em một câu này
Dặn rằng em nhớ yêu Cha
Một mình Cha mà thôi

Mộng đời em đã xong chưa?
Em có mừng không?
(Em thấy gì không?)