Thấy Mèo nhớ Chó
Thái-Vinh tặng Má, người thương chó nhất đời
(Đã đăng trong nguyệt san Bút Tre số tháng 1 năm 2011)
Tôi không thích mèo!
Nói xong tôi bỗng giật mình. Đàn ông nào lại không thích mèo; nhất là loại mèo biết lườm nguýt và nũng nịu duyên dáng lại biết sợ chuột nè?
Còn loại mèo bốn chân biết bắt chuột, tôi cũng thích. Nhưng vì có duyên với chó; mà mèo với chó chọi nhau như nước với lửa nên cả đời tôi chưa bao giờ có mèo, và mỗi lần thấy mèo tôi lại nhớ chó.
Tôi đã đọc đâu đó trong một cuốn truyện cổ tích Tây phương, thấy chuyện chó tìm đến ở với loài người rất tình cờ. Thoạt đầu, trên bước đường lang thang chó và mèo kết bạn sống chết với nhau; nhưng mèo lười biếng, thường giả bộ nhức đầu và ăn ít, cứ nằm nghỉ mệt, bắt chó vất vả lo tìm thức ăn nuôi mèo. Chó mệt chịu hết nổi phải chia tay. Ít lâu sau, chó gặp chồn. Thấy chồn nhanh nhẹn và lém lỉnh, chó bèn kết bạn; nhưng đến lúc tìm được thức ăn, chồn thường lẩn tránh, ăn lén một mình. Chó lại chán nản bỏ đi. Rồi một hôm gặp thỏ. Thấy thỏ siêng năng và thành thật, chó lại kết bạn; cả hai có vẻ tương đắc với nhau lắm. Nhưng tình bạn giữa chó và thỏ cũng không được bền lâu vì một hôm gặp thú dữ, chó liều chết chống cự; còn thỏ vừa thấy nguy đã co giò chạy trốn. Chó buồn bã bỏ đi lang thang một mình đến gốc cây kia thấy một người đi săn đang nằm ngủ, chó tò mò lại gần liếm tay muốn kết bạn. Người đi săn thức dậy, thấy con vật dễ thương bèn ve vuốt và chia thức ăn; rồi chó cũng bắt chước chạy theo người, săn đuổi và nhặt mồi suốt ngày hôm ấy. Người đi săn thấy vậy rất bằng lòng bèn đem chó về nhà.
Tôi không thích cách giải thích tình cờ của Tây phương cho lắm vì tôi chịu ảnh hưởng của Má tôi về tình yêu thương thú vật của bà để mai sau lỡ xuống cõi âm được chó dắt chủ vững bước qua cầu Nại Hà vào phủ Luân Hồi đầu thai chuyển kiếp tránh sa vào địa ngục tăm tối, và cũng theo tinh thần Phật giáo qua thuyết luân hồi Má tôi cho kiếp trước chó là một con người vô nghĩa bất trung, nên kiếp nầy phải chịu quả báo làm kiếp chó trung thành để trả nợ. Vì vậy tất cả những con chó mà Má tôi nuôi hay chó đói và chó hoang tự tìm đến tị nạn, Má tôi đều thương yêu và săn sóc như những đứa con riêng của bà. Đến mùa động tình, chó chưa thiến dái rạo rực chạy rông suốt đêm. Má tôi đang ngủ chợt tỉnh dậy thấy mất con Tý Nô, bà vội vã cầm roi đi tìm. Thấy ở chỗ tối dưới gốc đa con Tý Nô đang cùng bạn gái chung đít nhe răng chống cự với một lũ chó đực khác đang tức giận sủa khan tiếng, bà bèn quất cho mỗi đứa một roi đuổi chạy tan tác và kéo Tý Nô phải bỏ cuộc vui đem về bắt ngủ dưới đít giường khiến nó bực mình rên rỉ làm cả nhà đều mất ngủ. Chúng tôi bênh Tý Nô, thì bị Má rầy là nó còn nhỏ mà biết chơi bời sớm sẽ bị mất sức! Ba tôi nghe vậy biết bị nói xỏ xiên nên bực mình đứng dậy bỏ đi. Vì vậy tuổi về già mà hai ông bà vẫn thường hục hặc.
Má tôi cậy có con cháu ở nước ngoài, nên đặt tên con chó cưng của bà là Tý Nô đọc ngược lại là Tony để lấy le với các bà hàng xóm; chứ hồi xưa, những con chó của Má tôi đều mang những cái tên rất tầm thường đặt theo màu lông như chó Mực, chó Vàng, hay chó Mốc… Con chó Vàng của Má tôi là một con chó đẹp chiến nhất xóm; nhưng vì chuyện tình ái không biết mệt của nó đã làm cả xóm mất ngủ triền miên. Nhân lúc Má tôi đi buôn xa, Ba tôi và chú Bảy Phụng bèn bắt thiến đi. Nó đau đớn bỏ nhà chạy lên núi trốn mấy ngày; ít hôm sau trở về biến thành một con chó mất hồn. Khi chúng tôi dọn về nhà mới, bắt nó bịt mắt bỏ theo xe. Về nhà mới, ở được ít hôm nó tự tìm đường về lại nhà cũ và chết già ở đó mấy năm sau.
Còn con chó Mốc, ban đầu là chó của ông Xã Quyền hàng xóm nuôi để ăn cứt con gái mới đẻ của chị Bốn Hạnh. Nó chán ăn món cũ nên thường lén chun rào qua ăn cơm ké với con chó Vàng. Thấy nó có khiếu cắn mổ, anh tôi tập nó thành chó săn; nhưng vì cái đuôi của nó quá dài, lúc chạy cứ dựng đứng phất phơ làm chồn nhím vừa thấy lá cờ của nó đã chạy trốn hết. Anh tôi bực quá, bèn dụ cho nó ăn bên nầy hàng rào, để anh Ba Khương đứng bên kia chặt đứt đuôi! Từ ngày rụng đuôi, con chó Mốc điếng hồn đành trở về nhà cũ!
Tôi không bao giờ dám nghĩ tới chuyện nuôi một con chó vì hình ảnh con chó Vàng bị thiến mất hai hòn bi mất đi niềm vui duy nhất của giống đực, hay cái đuôi chưa đứt hẳn của con chó Mốc dính lủng lẳng mấy ngày làm tôi rợn da gà nhiều năm. Cho đến năm đầu tiên thấm thía mùa đông lạnh lẽo ở Mỹ, bà Corkey là người bảo trợ đến thăm thấy tôi cô đơn buồn bã mới có ý muốn tìm cho tôi một món quà Giáng Sinh đặc biệt. Nhìn Dawn bằng đôi mắt trìu mến, tôi nói lí nhí muốn có một người bạn gái; nhưng bà cố tình nghe nhầm, mua tặng tôi một con chó Labrador lông vàng óng như tóc của Dawn, con gái cưng bà.
Tôi muốn đặt tên con chó của tôi là Dawn, nhưng lại sợ mẹ của Dawn buồn, tôi bèn gọi nó là Jingle Bells (một ca khúc Giáng Sinh). Tôi thương con Jingle Bells của tôi lắm. Ban đêm khi tôi đi làm thì Jingle Bells ngồi đợi khóc trong cửa. Gần sáng tôi về ôm lau nước mắt, đánh răng, rồi bồng Jingle Bells lên giường ngủ. Dạo ấy, tôi còn ở chung với hai người bạn Việt. Họ rất khó chịu cái kiểu nuôi chó Mỹ của tôi, nên rất ác cảm với Jingle Bells. Một ngày kia Jingle Bells bị đau; bà Corkey đem nó đi bác sĩ. Lúc nào tôi gọi thăm, Dawn đều bảo Jingle Bells chưa được khỏe. Cuối cùng hai mẹ con bà đến xin lỗi vì biết tôi không thể nuôi được Jingle Bells nên đã tìm cho nó một người chủ mới. Nghe qua tôi vùng oà khóc bỏ chạy lên lầu làm một bài thơ thả xuống. Tôi giận bà Corkey thì ít, mà hờn cô con gái của bà nói dối tôi nhiều lắm. Tôi thề không bao giờ nuôi chó nữa! Bẵng đi một năm, trong lúc nghỉ tay đánh bóng chuyền do các bạn trẻ nhà thờ tổ chức, tôi lấy sáo tre thổi vài bài giúp vui. Bỗng một con chó to lông vàng óng ở đâu vùng chạy đến nhảy chồm lên người. Jingle Bells đã nhận ra chủ cũ. Cả hai mừng ôm nhau khóc!
Sau nầy đã lập gia đình và nhà có vườn rộng rãi ở tiểu bang Virginia, tôi vẫn giữ lời thề không nuôi chó; vả lại nhà hàng xóm đã có con Fritz mỗi chiều ngồi chờ bên rào để được bồng qua cho ăn ngon và đùa giỡn với các con tôi, hay mỗi khi ông Bill và bà Ruth hàng xóm đi hè, Fritz rất sung sướng được ở bên nầy và được dẫn đi chơi suốt ngày. Tôi thật sự không cần nuôi chó nữa.
Nhưng rồi cuộc đời lại đưa đẩy gia đình tôi trôi giạt đến Nouvelle Calédonie, một hòn đảo nhỏ đầy bóng dừa thơ mộng giữa biển nam Thái Bình Dương. Thấy tôi buồn, nhân có người muốn cho con thỏ, nàng xin đem về tặng tôi. Tôi đặt tên nó là Peter. Peter thường chận đường cắn chân tay hai đứa con tôi, và thích trốn ỉa trong nhà. Biết cả nhà thích nuôi chó hơn, nàng lại chọn một con chó đen mới sinh đem về thả cho Peter làm bạn. Tôi đặt tên nó là Uncle Sam gọi tắt là Sam (chú Sam là cách gọi đùa cợt đối với chính phủ Mỹ). Sam thuộc loại Lulu Calédonien nhỏ xíu nhưng rất thông minh. Peter tưởng Sam đồng loại nên thường đè Sam ra làm bậy. Sam đâu đã biết gì, thấy Peter đùa nhột nên càng khoái chí nằm cười, khiến ngày nào tôi cũng phải đem Sam kỳ cọ tắm rửa. Nếu xách roi đuổi, thì Peter vừa chạy vừa vãi phân ra làm Sam tưởng kẹo chạy theo lượm ăn. Cuối cùng chúng tôi phải đành đem Peter cho người khác! Vài tháng sau đưa Sam ra thăm nông trại, thấy Peter co ro nằm chuồng trên, bên dưới là một con thỏ cái to gấp năm lần Peter lúc nào cũng chờ cắn mổ anh chồng nhí Peter; chúng tôi đành gạt nước mắt chia tay và không bao giờ trở lại gặp Peter nữa!
Sam là con chó rất đặc biệt của tôi. Nó hiểu biết rất nhiều từ tiếng Anh, tiếng Việt. Sam lại biết cạy cửa buồng ngủ đánh thức mẹ dậy mỗi sáng và biết ngồi đợi mỗi chiều ba đi làm về mừng. Chúng tôi cưng Sam như một đứa con. Những lần viết thư về thăm nhà, tôi thường kể nhiều chuyện về Sam, làm cả nhà tưởng chúng tôi có thêm em bé. Ngoại trừ những lần đi du lịch nước ngoài, đành phải gửi Sam ở nhà Ngoại để bạn Sam là Simber đùa giỡn cắn kéo đuôi; còn đi đâu quanh quẩn trong hòn đảo nhỏ thơ mộng nầy chúng tôi đều mang Sam theo. Có lần thả mẹ con nàng ở hồ tắm, lúc mở cửa xe, Sam tự nhảy ra chơi ngoài bãi cỏ; chừng về gần đến nhà, thấy Sam không ngồi ở ghế trước như thường lệ, tôi hết hồn vội vàng vòng xe trở lại hồ tắm thì thấy Sam đang ngồi chờ ở ngay chỗ cũ!
Sam đang ăn mà nghe tôi bảo: “Sam, đi bộ một tí tí?” Sam chạy đi bộ liền. Tôi bảo cắn, thì Sam cắn. Bảo sủa, thì Sam sủa. Bồng hát những câu ca dao vớ vẩn thì Sam ngủ ngay. Sam rất ghét mèo và nhất là ghét người đen bản xứ mặc dù Sam là con chó đen như mực! Trừ một năm hai bận, Sam lên cơn ngớ ngẩn thẫn thờ của kẻ thất tình ra ngồi sau hè mơ gái bỏ ăn ba bốn ngày, Sam thật sự là một đứa con ngoan của chúng tôi. Tôi tự nhủ một ngày kia, nếu bỏ Nouvelle Calédonie về lại Mỹ, tôi phải mang Sam theo. Đó là điều bận tâm của tôi. Nhưng định mệnh tàn nhẫn, Sam bị xe tông chết đã xóa bỏ mối bận tâm của tôi; nhưng làm tôi buồn bã suốt đời!
Một buổi chiều cuối năm, tiếng pháo nổ đâu đó làm một con chó Berger Belge sợ hãi chạy lạc đến trước nhà. Thấy chó mất chủ, đói khát tội nghiệp, nàng ném cho cục xương. Sam bực mình sủa đuổi đi, nhưng con Berger nhìn tôi bằng đôi mắt van lơn, và hình như trong thâm tâm nó đã quyết định tự chọn một người chủ mới rồi! Ba ngày sau, tôi đặt cho nó một cái tên mới, SCOOBY DOO, gọi tắt là Cú Bi. Cú Bi rất bằng lòng với vườn mới, chủ mới, và anh chị mới cho dù thằng em Sam nhất định chận cắn không cho bước chân vào nhà một thời gian dài!
Nếu con người sang trọng do ở sự ăn xài, thì từ ngày Cú Bi đến ở, quả thật chúng tôi đã trở nên sang trọng. Vì Sam nhỏ con ăn uống như mèo quào; nhưng Cú Bi mỗi ngày phải xực một lon thức ăn to từ hai đô la trở lên! Vậy mà bạn bè đến chơi, cứ xuýt xoa khen tặng:
Mèo đến nhà thì khó
Chó đến nhà thì sang
Cú Bi đến ở ít lâu bèn ra sức đuổi cắn hết các con chó đực khác ra khỏi xóm. Tuy không to khoẻ lắm, nhưng Cú Bi có đủ ba đức tính tán gái là:
Liều mạng, đa tình, và lịch sự
Cú Bi được các em gái trong xóm khoái nhất! Đến mùa yêu, nó bỏ ăn, rán sức phi thân qua hàng rào nhà bạn gái nằm úm em cùng thích thú ngắm mưa rơi và nhìn lũ chó đực gầm gừ tức tối sủa ầm ĩ! Cú Bi chỉ khoái nằm ôm em hun hít và liếm láp tí đỉnh thôi, còn đứng dậy tính chuyện kiểu nầy kiểu kia chỉ làm em nhột chạy đi chỗ khác để Cú Bi nhịp khum lưng đánh vãi vào không khí một mình!
Vì không làm ăn gì được với các cô bạn nhỏ xíu, Cú Bi bỏ nhà đi lang thang khắp các khu phố ở thủ đô Nouméa tìm bạn xứng đôi vừa lứa để biết bao cô bạn nhỏ hàng xóm đau khổ khóc thầm! Mỗi lần đi Cú Bi như một chiến sĩ ra trận, lúc trở về bị thương tích đầy mình; còn nếu không thấy mặt Cú Bi chừng vài ba ngày, thì chúng tôi phải lo ra Fourrière đóng phạt năm mươi đô la để đón về. Bực quá, tôi đem Cú Bi thả vào vườn nhà em nàng giao cho việc làm chó giữ nhà; nhưng chỉ được một buổi, Cú Bi đã trổ tài phi thân vọt rào trở về nhà bố mẹ!
Từ ngày Sam mất đi, Cú Bi trở thành đứa con trọn vẹn của tôi. Cú Bi ăn cơm và đồ chiên xào, không thích thực phẩm đóng hộp; có khi bị bố ép buộc khăn cổ đút ăn đồ hộp như con nít! Mỗi sáng đúng năm giờ, Cú Bi đánh thức bố dậy cùng đi bộ một vòng lớn quanh xóm; rồi chịu buộc dây suốt ngày quanh quẩn trong vườn. Chiều bố đi làm về thả ra, Cú Bi liền chạy vào nhà nằm trông tiệm sách. Khách đến Cú Bi ra tận cổng đón chào. Đặc biệt dù đang ngủ trong nhà hay phơi nắng ở tận sau vườn, chỉ nghe tiếng guốc quen thuộc của cô đầm rất trẻ đẹp đi ngang qua nhà, Cú Bi vội vàng chạy ra hôn tay rồi đi theo cô đầm đến tận sở làm. Phần thưởng cô đầm tặng cho chàng là một bát nước lã; uống xong chàng vệ sĩ đa tình lại lủi thủi về nhà nằm chờ buổi chiều tan sở cô đầm trở về ngang qua nhà, chàng vệ sĩ đa tình lại chạy ra hôn tay và đưa về tận nhà!
Tôi đã đắp mộ Sam dưới gốc dừa sau nhà và khóc nhiều ngày. Trong vài tháng nữa tôi lại giã từ Tân Đảo về Mỹ. Nàng và các con còn ở thêm một thời gian, nhưng sau đó Cú Bi sẽ lại mất chủ! Chó mất chủ như người mất mẹ! Tôi không dám nghĩ tới ngày buồn đó!
Hôm cầm tấm vé máy bay biết ngày đi gần kề, bỗng thấy Cú Bi đi hoang như thường lệ trở về. Lần nầy không có thương tích gì cả, nhưng toàn thân Cú Bi rực một mầu vàng như nghệ!
Buổi chiều đến nhà thương thăm. Vừa thấy tôi, Cú Bi khóc rống lên đòi về. Tôi ôm Cú Bi vào lòng an ủi, “Bác sĩ bảo con phải ở lại vài ba ngày uống thuốc cho khỏe hẳn, rồi bố sẽ đến đón con về nhé!”
Đêm hôm sau, trong lúc gia đình cậu mợ Trường đãi tôi bữa cơm chia tay, có điện thoại gọi báo tin Cú Bi đã mất! Tôi bàng hoàng buông rơi đũa ăn, nghẹn ngào nước mắt!
Tôi đã đi nhiều nơi, và tôi đã gặp nhiều người; càng gặp nhiều người, tôi càng yêu những con chó của tôi hơn!
(Kỷ niệm 10 năm ở Tân Đảo Nouvelle Calédonie)